Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2011

Rumsfield nói về các vấn đề của Trung Quốc


Donald H. Rumsfeld, thư ký quốc phòng trong chính quyền George W. Bush, phát biểu tại CPAC Alaska 2011.
(Socmai-03/09/11) Donald Rumsfeld nói rằng ông không quá lo lắng về Trung Quốc. "Tôi đã đọc tất cả về Trung Quốc như bốn mươi feet cao," cựu thư ký Quốc phòng Mỹ cho biết trong một bài phát biểu tại Hội nghị hành động chính trị bảo thủ ở Alaska. "Trung Quốc có khó khăn", Ông nói.

Ông liệt kê những khó khăn phải đối mặt với người khổng lồ châu Á, bao gồm: các vấn đề biên giới với Nga, Ấn Độ và Việt Nam, sức mạnh quân sự quá tầm đối với chính phủ, sự chênh lệch giữa bờ biển và một phần bên trong của đất nước, sự đa dạng các dân tộc trong nước, các tập đoàn chính phủ và chính sách một con.

Phó Tổng thống Joseph Biden nói trong một bài phát biểu tại Trung Quốc vào tháng Tám, tôi hoàn toàn hiểu chính sách của bạn - Tôi không đoán là có đứa con thứ hai cho mỗi gia đình."

Ông Rumsfeld nói với các nhà hoạt động của đảng Cộng hòa hôm thứ Năm rằng một vấn đề lớn đối với Trung Quốc: "đó là có chính sách một con ngu ngốc đã tạo ra một số lượng rất lớn nam giới và thực tế không có con gái." Ông tiếp tục nói, "Họ là một trong hai sẽ phải trở thành người nhập cư, di cư cũ của nam giới hoặc ngược lại chế độ đa thê [cười] Có một điều như thế chăng ?"

Ông Rumsfeld nói rằng Trung Quốc "hoành tráng, lớn, các công ty của chính phủ hoạt động không hiệu quả nhất trên thế giới. Ông dự đoán rằng," Họ sẽ phải phá sản tại một số điểm. Và bạn sẽ kết thúc với hàng chục ngàn người dân mất việc. Và họ sẽ có rối loạn dân sự và sự gián đoạn."

Bên cạnh những khó khăn, các cựu lãnh đạo quân sự trong chính quyền cựu Tổng thống George W. Bush không lo lắng về sức mạnh của quân đội trong chính phủ.

"Điều duy nhất tôi thực sự lo lắng về với Trung Quốc là tôi không thực sự hiểu mối quan hệ giữa các lãnh đạo chính trị - lãnh đạo đảng Cộng sản và Quân đội Giải phóng nhân dân (PLA)." Ông nói rằng, "Tôi không biết những gì ảnh hưởng tới PLA] hoặc những người phụ trách nơi đó là một bí ẩn đối với tôi." (1)

Ông cho biết sự cố vào năm 2001 khi chiếc máy bay EP-3 của Mỹ va chạm trên không với máy bay Trung Quốc và bị buộc phải hạ cánh và bật đèn chiếu sáng vào máy bay này.


Máy bay EP-3 của Hải quân Mỹ.

Ông Rumsfeld nói rằng, "Giang Trạch Dân là ảnh hưởng ở Nam Mỹ, và nó trông giống như khu vực này do Quân đội Giải phóng Nhân dân phụ trách.", "Hành vi của họ là hoàn toàn thái quá ", ông nói thêm, "máy bay của chúng tôi đã phải hạ cánh trên đảo Hải Nam . Chúng tôi không có sự lựa chọn. Họ chia cắt máy bay. Họ đã lấy bắt các tù nhân. Họ giữ chúng ở đó một thời gian dài."

Bộ trưởng Quốc phòng trước đậy không tin Trung Quốc sẽ xâm lược Đài Loan. Không cần cho rằng như thế, ông nói. Nhưng nếu họ đã làm, "họ sẽ có một thất bại hoành tráng nhất của chính sách đối ngoại và ngoại giao trong cuộc đời của tôi."

Tư vấn chiến lược của ông là để liên kết chặt chẽ và giữ liên minh mạnh mẽ trong khu vực với Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Úc. Trung Quốc: "sẽ được tiếp cận và cố gắng để khẳng định mình, để chắc chắn. Nhưng nếu chúng ta vẫn mạnh mẽ, đó là một ngăn chặn. Điều đó sẽ ảnh hưởng hành vi của họ."

Nhưng Ông cũng thấy mối quan tâm của mình về điểm mạnh của Trung Quốc. "Họ đang thực hiện chính sách cho nền kinh tế của họ là phát triển thông minh và họ đang đầu tư mạnh cho quốc phòng của họ.", Ông nói với nhóm thảo luận.

"Họ là các nhà tư tưởng tầm xa không tính chuyện ngắn trước mắt như chúng ta... Họ không có điều khoản bốn năm. Chúng ta phải quan sát họ và chúng ta phải mạnh mẽ. Nếu chúng ta cư xử tốt, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể quản lý được. "

Báo cáo của Emily Miller - The Washington Times.
(1): Tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Trung Quốc cũng là tổng tư lệnh quân đội của nước này. Ở Việt Nam, người có chức vụ cao nhất trong quân đội là Bộ trưởng quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị .
Xem thêm »

Việt Nam mua thêm nhiều tên lửa tối tân của Nga

(Phunutoday - 02-09-2011) - Theo như báo cáo của mạng tin tức quân sự của Nga ngày 30/8, "pháo đài Nga" hay còn gọi là "Bastion" hệ thống tự động phóng tên lửa chống lại các loại tàu sân bay và các loại tầu ngầm khác nhau. Cho dù hình thành nhiều mục tiêu khác nhau hoặc là mục tiêu đơn lẻ. Nó bảo vệ hơn 600km bờ biển và ngăn chặn sự đổ bộ của đối phương.


Tên lửa S-300 của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ảnh: QĐND

Hiện nay, bên cạnh 3 bộ đang được lắp ráp ở Nga, một số lượng nhỏ cũng đã được xuất khẩu sang Việt Nam và Syria. Để tăng cường sức mạnh chiến đấu, Việt Nam đang đàm phán để mua hệ thống vũ khí này để có thể chống lại tàu sân bay.


Sơ đồ hệ thống tên lửa phòng thủ Bastion-P của Việt Nam sẽ mua, ảnh: www.naivix.com

"Pháo đài" hệ thống phòng thủ tên lửa tự hành ven biển bao gồm 1 quả tên lửa chống máy bay siêu âm phạm vi tối đa là 300km, sử dụng bốn bộ MZKT-7930 bệ phóng di động, mỗi trang bị có thể phóng ra 2 quả tên lửa, cũng có thể gia tăng một mục tiêu truyền dẫn. Năm 2006 Nga đã hoàn tất việc ký kết hợp đồng cung cấp một bộ hệ thống "pháo đài-P"cho Việt Nam trị giá 150 triệu USD. Giá trị của hợp đồng là giá trị thực tế của việc sử dụng loại thiết bị này ở giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu và phát triển.


Hệ thống tên lửa P-800 Oniks/SS-N-26 Yakhont , ảnh: QĐND

Khách hàng xuất khẩu thứ 2 của Nga là Syria, trong năm 2007 đã ký hợp đồng cung cấp 2 hệ thống thiết bị này. Vào năm 2008 Bộ Quốc phòng Nga và hiệp hội khoa học chế tạo máy cũng đã ký hợp đồng 3 bộ hệ thống ZK55 "pháo đài - P" cho hạm đội biển đen Anapha trong quân đoàn pháo binh số 11 của Nga, bộ cuối cùng sẽ được chuyển giao trong năm nay.

Trang tin De Volkskrant của Hà Lan cũng cho biết, Việt Nam đang tiến rất gần tới việc sở hữu hệ thống tên lửa chống hạm siêu thanh BrahMos. Việc mua tên lửa chống hạm này cần phải có được sự đồng ý của cả Nga và Ấn Độ.


Tên lửa siêu âm diệt hạm Brahmos của Nga và Ấn Độ cùng hợp tác nghiên cứu, ảnh:Elesteel.ru

Cách đây ít lâu, tờ Strait Times đưa tin, Việt Nam hiện đang ở giai đoạn cuối cùng của tiến trình đàm phán mua một hệ thống tên lửa đạn đạo tầm ngắm (SRBM) mới của Israel. Các nguồn tin tiết lộ với Strait Times, thỏa thuận có thể sớm được hoàn tất và đây sẽ là thỏa thuận mua bán hệ thống tên lửa đầu tiên giữa Israel và Việt Nam.

Tên lửa SRBM của Ixraen, ảnh: Strait Times

Hệ thống SRBM đang được thảo luận này mang tên Extra. Extra do Cơ quan Công nghiệp Quốc phòng Israel và bộ phận chế tạo Hệ thống Phóng Hỏa tiễn (MLM) thuộc cơ quan Công nghệ Hàng không của Israel (IAI) hợp tác chế tạo. Hệ thống này được công khai lần đầu tiên tại Triển lãm Hàng không Paris trong năm 2005.


Mô hình Bastion-P, ảnh: naivix

Nhu cầu về các loại vũ khí như vậy trong thời điểm hiện nay là rất lớn nhất là ở khu vực Đông Nam Á, trong khi các nước trong khu vực đang tăng cường rất lớn sức mạnh về hải quân.Trong trường hợp này, để loại bỏ các nhóm máy bay chiến đấu của tầu sân bay ở mức độ và cấp độ khác nhau bao gồm cả tầu ngầm và các mục tiêu riêng lẻ thì hệ thống phòng thủ tên lửa bờ biển của Nga là một lựa chọn tối ưu nhất. Hiện tại Việt Nam đang tiếp tục mua thêm vũ khí của Nga và Nga cũng đã bắt đầu tiến hành đàm phán với Việt Nam.

Phú nguyễn (Theo Mil, Strait Times, VietnamDefence, Xinhua, naivix, De Volkskrant)
Xem thêm »

Việt Nam hoan nghênh thêm nhiều tàu chiến Ấn Độ cập cảng

(Socmai - 03/09/11) Việt Nam nói rằng hợp tác quốc phòng với Ấn Độ đã bắt đầu từ những năm 1980 và các tàu chiến của Ấn Độ được chào đón nồng nhiệt nhất đến các cảng của VN.


Mô hình tàu chiến Ấn Độ dự kiến hạ thủy năm 2014.

Trong cuộc nói chuyện dành riêng cho ANI, Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Thanh Tân cho biết: "Ấn Độ và Việt Nam đã hợp tác quốc phòng chặt chẽ kể từ đầu những năm 1980 và tàu chiến Ấn Độ đã đến thăm Việt Nam kể từ đó. Chúng tôi nghĩ rằng sự hợp tác như vậy bây giờ là củng cố và phát triển nhanh chóng..."

"Chúng tôi chào đón các tàu Ấn Độ đến các cảng của chúng tôi," Ông Tân nói thêm.

Phái viên Việt Nam đã phản ứng một báo cáo được công bố trên Financial Times có trụ sở tại London, nói rằng một tàu chiến Trung Quốc chặn tàu INS Airavat của Ấn Độ ngay sau khi nó rời khỏi một cảng Việt Nam vào cuối tháng bảy ở Biển Đông.

Mặc dù Bộ Ngoại giao (MEA) và Bộ Quốc phòng Ấn Độ đã bác bỏ báo cáo, nhưng Ấn Độ đã xác nhận rằng tàu chiến của họ đã được liên lạc trên Radio bởi một người xác định mình là "Hải quân Trung Quốc" nói rằng "bạn đang đi vào vùng biển Trung Quốc".

Tuy nhiên, không có tàu hoặc máy bay có thể nhìn thấy từ INS Airavat, do vậy cuộc hành trình của tàu tiếp tục theo đúng tiến độ, theo một tuyên bố của MEA.

Phái viên Việt Nam tiếp tục nói rằng sự cố sẽ không có hiệu lực trên các quan hệ quốc phòng giữa Ấn Độ và Việtt Nam.

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn Độ S.M. Krishna sẽ đến thăm Việt Nam vào cuối tháng này, trong khi Chủ tịch nước Việt Nam sẽ đến Ấn Độ trong tháng Mười.

Trung Quốc ngày càng cứng rắn và táo bạo trên biển Đông mà họ tuyên bố là có chủ quyền.

Báo cáo của Naveen Kapoor (ANI)
Xem thêm »

Thế giới ngày 05/09/11

Xem thêm »

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

Cận cảnh tàu lưỡng cư Comstock của Mỹ thăm Hồng Kông

(Socmai-02/09/2011)Một sĩ quan chỉ huy đứng bên cạnh xe quân sự đậu xe bên trong con tàu lưỡng cư Comstock tại một bến tàu ở Hồng Kông, phía nam Trung Quốc, 2 Tháng 9, 2011. Comstock, một tàu sân bay lưỡng cư, bắt đầu chuyến viếng thăm Hồng Kông vào ngày 31 tháng 8 và sẽ trở lại cảng nhà của mình ở San Diego, Hoa Kỳ ngày 4/09. Biên chế vào năm 1990 với công suất khoảng 600 binh sĩ, nhiệm vụ chính của Comstock là để khởi động tấn công và hỗ trợ tàu tấn công và chuyên chở các phương tiện trong các hoạt động đổ bộ, và cung cấp dịch vụ bảo trì.
Ảnh chụp ngày 2 tháng 9, 2011 cho thấy một cái nhìn bên trong con tàu Comstock ở Hồng Kông.
Hai binh sĩ ra khỏi tàu đi bộ trên sàn tàu Comstock 2 tháng chín, 2011

Hai binh sĩ tán ngẫu trên sàn của Comstock.

Ảnh chụp một bãi đỗ xe trên tàu ngày 2-09-11.

Xem thêm »

Trường Sa, Hoàng Sa đã có “sổ đỏ quốc gia”

Việt Nam hiện nay có đầy đủ các căn cứ pháp lý cũng như căn cứ lịch sử phù hợp với luật pháp quốc tế để khẳng định chủ quyền biển cũng như chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

“Sổ đỏ” là không có quyền tranh chấp


Theo Cục trưởng Cục thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) Lê Văn Nghiêm: Khi Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (Công ước 1982) có hiệu lực năm 1994, Việt Nam mặc nhiên được luật pháp quốc tế công nhận, cấp cho một cuốn “sổ đỏ” với chủ quyền và các quyền tài phán đối với các vùng biển của mình. Theo đó, vùng biển của Việt Nam có tổng diện tích 1 triệu km2, rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Vùng biển của Việt Nam không phải và không thể được coi là vùng tranh chấp. Không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước ven biển trên thế giới cũng đều có các vùng biển của mình theo Công ước 1982.


Văn khao Lề thế lính Trường Sa năm Tự Đức thứ 20 (1867). Ảnh: Internet

Như vậy, theo Công ước 1982, bản đồ “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc tự ý vẽ ra không chỉ vi phạm thô bạo các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam mà còn vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế. Do vậy nó hoàn toàn không có căn cứ và không có giá trị pháp lý.

Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, Việt Nam căn cứ vào luật pháp quốc tế để khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của mình. Công ước 1982 được coi là đạo luật cơ bản về đại dương của thế giới, có giá trị pháp lý và hiệu lực cao. Từ khi Công ước 1982 ra đời, nó đã quy định các nước ven bờ biển được có các quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Đây là các quyền đương nhiên mà các quốc gia, trong đó có Việt Nam, được hưởng. Công ước này có tổng cộng 119 nước cùng tham gia ký, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc là các nước thành viên đã cùng đặt bút ký.

Cục trưởng Lê Văn Nghiêm nhấn mạnh: “Vùng biển đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng 200 hải lý là khu vực thuộc “sổ đỏ quốc gia” thì không thể có chuyện tranh chấp ở đây”.

Căn cứ lịch sử phù hợp công pháp quốc tế

Trong việc bảo vệ và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử phù hợp quy định quốc tế.

Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ hai quần đảo này dưới các tên gọi: Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. Với tư cách là người làm chủ, trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của Việt Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả các cuộc khảo sát đó.

Có thể liệt kê ra một số cứ liệu lịch sử như: Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII; Giáp Ngọ bình nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774; Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, Đại Nam nhất thống toàn đồ, bản đồ nước Việt Nam đời Nguyễn vẽ vào khoảng năm 1838; Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý Việt Nam do Quốc Sử quán nhà Nguyễn (1802-1845) soạn xong năm 1882…

Không chỉ cứ liệu trong sử sách Việt Nam có ghi chép về sự sở hữu và quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây trong những thế kỷ trước đều xác nhận Hoàng Sa (Pracel hay Paracel) thuộc lãnh thổ Việt Nam. Giám mục J.L.Taberd, trong bài “Ghi chép về địa lý nước Cochinchine (Giao Chỉ - Việt Nam - PV)“ xuất bản năm 1837, cũng mô tả “Pracel hay Paracels” là phần lãnh thổ nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine gọi Pracel hay Paracels là “Cát Vàng”. Một giáo sĩ Phương Tây đi trên tàu Amphitrite từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701 viết trong một lá thư rằng: “Paracel là một quần đảo thuộc vương quốc An Nam. Trong bài Địa lý vương quốc Cochinchina (15) của Gutzlaff, xuất bản năm 1849 có đoạn nói rõ Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích cả tên Việt Nam là “Cát Vàng”.

Như vậy qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây nói trên, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đến năm 1884, sau khi ký hiệp ước với triều đình nhà Nguyễn, hoàn thành công cuộc đô hộ Việt Nam, Pháp đại diện quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa (Ile Pattle), trong quần đảo Hoàng Sa, xây dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo Trường Sa. Hàng chữ trên bia có ghi: “Cộng hoà Pháp, Vương quốc An-nam, quần đảo Hoàng Sa, 1816 - đảo Pattle – 1938”.

Ngày 7/9/1951, trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu tuyên bố tại Hội nghị San Francisco về việc ký hoà ước với Nhật Bản rằng từ lâu quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Lời tuyên bố của Đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị San Francisco không gặp sự chống đối hoặc bảo lưu nào của đại diện 51 quốc gia tham dự Hội nghị.

Chính phủ Sài Gòn, sau đó là cả Chính phủ Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cũng đều thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Năm 1956, lực lượng hải quân của Chính quyền Sài Gòn tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi Pháp rút quân về nước. Ngày 22/10/1956, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Ngày 13/7/1961, Chính quyền Sài Gòn đặt quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang và đặt dưới quyền một phái viên hành chính.

Từ đó cho đến năm 1974, chính quyền miền Nam Việt Nam luôn bảo vệ chủ quyền mỗi khi có nước ngoài biểu thị ý đồ tranh giành hay xâm chiếm đảo nào đó trong hai quần đảo. Ngày 19/1/1974, lực lượng hải quân của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa và cũng trong ngày này chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Ngày 5 và 6/5/1975, Hải quân nhân dân Việt Nam giành lại quyền kiểm soát các đảo ở quần đảo Trường Sa từ quân đội Sài Gòn.

Từ năm 1975 đến nay, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về biển và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm 1977; Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam năm 1982; Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992; Nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 năm 1994 về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Luật Biên giới quốc gia năm 2003. Đồng thời, công bố chủ quyền về hai quần đảo này trên nhiều diễn đàn quốc tế và đều được thừa nhận. Cùng với đó, Nhà nước CHXHCN Việt Nam liên tục thực hiện quản lý hành chính đối với hai quần đảo này.

Xâu chuỗi các sự kiện lịch sử này, Cục trưởng Lê Văn Nghiêm đánh giá: “Trong suốt nhiều thế kỷ, Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là bằng chứng lịch sử vững chắc được luật pháp quốc tế công nhận”.

Qua các sách lịch sử, địa lý cổ của Việt Nam cũng như chứng cứ của nhiều nhà hàng hải, giáo sĩ Phương Tây, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nội dung đăng trên báo Bưu điện Việt Nam số đặc biệt ra ngày 31/08/2011
Xem thêm »

Trung Quốc phái tàu ngư chính "khủng" vào vùng biển tranh chấp

(Socmai - 02/09/2011) Trung Quốc đã phái một tàu ngư chính "khủng" đến quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp, cơ quan trực thuộc Bộ Nông Trang cho biết, Động thái này có khả năng tiếp thêm nhiêu liệu cho sự căng thẳng với Việt Nam vào ngày trước khi một quan chức cấp cao Trung Quốc thăm Hà Nội.

Một tàu 400 tấn rời khỏi thành phố Quảng Châu miền nam Trung Quốc để đi vào các đảo đang tranh chấp ở Biển Đông, Bộ Nông nghiệp cho biết hôm thứ Tư trên trang web văn phòng quản lý thủy sản Quảng Đông (www.nhyzchina.gov.cn).

"Điều này tiếp tục tăng cường nỗ lực thực thi quyền tài phán trên vùng biển thủy sản ở quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ ngành thủy sản và sự an toàn của ngư dân, và có hiệu quả bảo vệ chủ quyền biển của Trung Quốc và lợi ích thủy sản", Guo Jinfu, Phó thư ký của Phòng, cho biết.

Việc triển khai tàu, số 306, trong khi nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc, Ủy viên Nhà nước Đới Bỉnh Quốc, chuẩn bị đến thăm Việt Nam bắt đầu vào thứ hai.

Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan yêu cầu chủ quyền một số vùng lãnh thổ hòn đảo ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

Trung Quốc yêu cầu diện tích lớn nhất và bao gồm khu vực Hoàng Sa, bao gồm các hòn đảo nhỏ, ngư trường giàu tài nguyên để giữ dầu và khí đốt.

"Điều này cho thấy Trung Quốc đã thiết lập khả năng thi hành pháp luật trong và xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa", Tân Hoa Xã cho biết hôm thứ Sáu.

Hôm thứ Sáu, Tổng thống Philippines Benigno Aquino kết thúc một chuyến đi bốn ngày tới Trung Quốc, nơi ông đã gặp với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hồi đầu tuần. Cả hai đã tìm cách để gạt sang một bên thù địch đối với tranh cãi lãnh thổ.

Hồ Cẩm Đào nói với Aquino rằng vấn đề biển Nam Trung Hoa sẽ được giải quyết một cách hòa bình thông qua đàm phán. Aquino cho biết sau đó cả hai đã đồng ý về sự cần thiết cho một liên kết tiến hành trong khu vực.

Báo cáo của Michael Martina, Reuters.

Đính chính: Chúng tôi đã dịch nhằm tàu ngư chính (fisheries vessel) là tàu đánh cá. Xin cáo lỗi cùng bạn đọc.
Xem thêm »

Ấn Độ xác nhận Trung Quốc chặn tàu INS Airavat trong vùng biển Việt Nam

(Socmai - 02/09/2011) Các quan chức Ấn Độ cho biết một tàu hải quân trên một chuyến đi đến Việt Nam đã bị Trung Quốc cảnh báo báo vi phạm vùng biển Trung Quốc.

bộ Ngoại giao Ấn Độ đã lên tiếng cải chính thông tin báo chí và cho biết rõ một số chi tiết. Theo đó, tàu hải quân Ấn Độ INS Airavat đã tới thăm Việt Nam từ 19 đến 28 tháng Bẩy. Trên đường đi cách bờ biển Việt Nam 45 hải lý, tàu Ấn Độ đã nhận được một thông báo qua radio, được xác định là của một tàu Trung Quốc nào đó trong khu vực, nói rằng "các vị đang ở trong lãnh hải của Trung Quốc".

Tàu INS Avarat ở tại cảng Bộ quốc phòng Ấn Độ

Tuy nhiên, lúc đó, tàu Ấn Độ không nhìn thấy một chiếc tàu hay máy bay nào trong khu vực và do vậy, vẫn tiếp tục hành trình của mình.

Trung Quốc đã phát triển quyết đoán hơn - và tích cực trong cách nhấn mạnh các tuyên bố của mình đến nhiều vùng biển Đông, được hỗ trợ bởi sự tích tụ của lực lượng hải quân. Tàu Trung Quốc đã bắn tàu đánh cá từ Việt Nam và Philippines, cả hai đều tuyên bố chủ quyền trong khu vực Trung Quốc cũng tuyên bố.

Theo The Washington Post

Tin từ RFI:

Hôm qua, 01/09/2011, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Mỹ, Mark Toner đã kêu gọi Trung Quốc và Ấn Độ trao đổi với nhau qua con đường ngoại giao nhằm giải quyết những tranh chấp, trong bối cảnh, một chiếc tàu hải quân của Ấn Độ nhân chuyến ghé cảng Việt Nam, hồi cuối tháng Bẩy đã bị tàu của Trung Quốc nhắc nhở là đang đi vào hải phận của Trung Quốc, ngay trong khu vực gần bờ biển Việt Nam.

Không quân Ấn Độ không sợ tên lửa Trung Quốc

Cũng liên quan đến Ấn Độ-Trung Quốc, theo IANS, một trang tin độc lập của Ấn Độ, chỉ huy lực lượng không quân nước này tuyên bố không lo ngại về mối đe dọa của tên lửa Trung Quốc.

Theo báo cáo của bộ Quốc phòng Mỹ, thì có thể Trung Quốc đã triển khai loại tên lửa có khả năng mang đầu đạn hạt nhân trong khu vực biên giới chung với Ấn Độ. Hôm qua, tướng Norman Anil Kumar Browne, tư lệnh không quân Ấn Độ tuyên bố, tất cả mọi người đều biết đến mối đe dọa này và New Dehli không lo ngại gì cả vì đã có kế hoạch đối phó với tình huống này.
Xem thêm »

Hoa Kỳ lo ngại việc Trung Quốc nghe lén

(Tác giả Eli Lake - The Washington Times - 02/09/2011).

Công nghệ gắn liền với quân đội quốc gia.

Một báo cáo của Ngũ Giác Đài cho hay đã tìm thấy một công ty viễn thông Trung Quốc trị giá hàng tỷ USD có quan hệ chặt chẽ với quân đội của Trung Quốc đã tìm cách xâm nhập vào thị trường Mỹ, bất chấp bị từ chối.

Kỹ thuật viên tiến hành một thử nghiệm điện thoại di động tại trụ sở Công ty TNHH Công nghệ Huawei ở Thâm Quyến, một thành phố phía Nam Trung Quốc giáp với Hồng Kông. Lầu Năm Góc cho biết các sản phẩm của công ty đang được sử dụng bởi quân đội Trung Quốc

Báo cáo hàng năm của Ngũ Giác Đài cho Quốc hội về quân đội Trung Quốc, phát hành tháng trước, xác định Huawei là một công ty công nghệ cao của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).

"Ngành đóng tàu và điện tử quốc phòng - có lợi nhuận hàng đầu trong sản xuất vận chuyển thương mại và công nghệ thông tin ở Trung Quốc- đã chứng kiến ​​sự tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua", báo cáo cho hay. "Các công ty công nghệ thông tin đặc biệt, bao gồm Huawei, Datang, và Zhongxing, duy trì quan hệ chặt chẽ với PLA."

Đó là câu cuối cùng nhắc nhở phó chủ tịch quan hệ đối ngoại William Plummer của Huawei, để trả lời cho một bức thư cuối cùng kêu gọi Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta hủy bỏ cáo buộc.

"Tài liệu tham khảo này không có cơ sở thực tế và bất công vì sự hoài nghi và ngờ vực xung quanh Huawei, làm phương hại đến các khách hàng tiềm năng của Mỹ từ các sản phẩm và giải pháp hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của chúng tôi," ông Plummer đã viết.

Vấn đề đối với Huawei là mối quan tâm rộng rãi trong quân đội Mỹ và các cơ quan tình báo của Huawei về các thiết bị điện đử, chip và phần mềm chứa các "back door" có thể cung cấp cho Quân đội Trung Quốc tương đương với việc nghe lén trên tất cả các cơ sở hạ tầng viễn thông của Mỹ.

Huawei đã phản đối rằng công ty có trụ sở ở Trung Quốc và có hợp đồng cung cấp thiết bị cho Cysco System trong việc xuất khẩu trang thiết bị của họ ra nước ngoài và các thiết bị này cũng có các nguy cơ tương tự như các thiết bị bán bởi Huawei.

Trong bốn năm qua, Huawei đã cố gắng để hợp tác với các công ty công nghệ cao của Mỹ và giành chiến thắng hợp đồng xây dựng mạng không dây 4G. Tuy nhiên, các nỗ lực của công ty, đã vấp phải sức đề kháng từ chính phủ Mỹ.

Trong năm 2008, Bộ Tài chính yêu cầu Ủy ban Đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ chặn các đề xuất của công ty phần mềm 3Com Huawei, vì lý do an ninh quốc gia.

Năm ngoái, đại diện của Cơ quan An ninh Quốc gia kêu gọi các công ty viễn thông lớn như AT & T và Sprint hủy bỏ một thỏa thuận để đặt phần mềm và phần cứng của Huawei trên các tháp di động của mạng không dây 4G.

"Doanh nghiệp Mỹ và cơ quan chính phủ phải thận trọng tham gia vào kinh doanh với các công ty có quan hệ với Quân đội giải phóng nhân dân PLA theo báo cáo của Ngũ Giác Đài", Dan Blumenthal - tại Viện Doanh nghiệp Mỹ và là một cựu quan chức về chính sách với chính Trung Quốc tại Lầu Năm Góc nói.

"Bản báo cáo được hiệu đính bởi các thư ký quốc phòng và cố vấn an ninh quốc gia. Nó đại diện cho quan điểm chung của cộng đồng tình báo Mỹ ", ông Blumenthal cho biết.

Trong thư gửi ông Panetta, ông Plummer cho biết: "Huawei đã luôn luôn hoạt động và tiếp tục hoạt động, độc lập của bất kỳ quyền sở hữu, kiểm soát, hoặc liên kết với chính phủ Trung Quốc hoặc quân sự."

Ông nói thêm rằng thiết bị của Huawei đã được kiểm toán và thông qua các yêu cầu an ninh của 45 trong số 50 nhà khai thác viễn thông hàng đầu thế giới. Không có khách hàng hoặc chính phủ nào tìm thấy bất kỳ sai xót từ các tiêu chuẩn quốc tế tại bất kỳ thời điểm nào, bao gồm cả các thiết bị đối với an ninh quốc gia. "

Huawei được thành lập vào năm 1988 bởi Ren Zhengfei, một cựu kỹ sư của PLA. Công ty đã cung cấp các sản phẩm mạng không dây cho nhiều quốc gia thế giới thứ ba và gần đây đã giúp xây dựng các mạng không dây cho Vương quốc Anh.

Nguồn: Pentagon fears listening posts from China
Xem thêm »

Việt-Trung giải quyết tranh chấp Biển Đông qua đàm phán

Xem thêm »

Việt Nam tuần qua 03-9-11

Xem thêm »

Đường chúng ta đi

Xem thêm »

Quân sự Việt Nam hiện tại và tương lai

Xem thêm »

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

Hilary Clinton ca ngơi quan hệ Việt - Mỹ

(Socmai-01-09-2011) Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton ca ngợi mối quan hệ của Mỹ với Việt Nam trong một thông điệp mừng ngày quốc khánh cho người dân của quốc gia Đông Nam Á.

Việt Nam kỷ niệm ngày quốc khánh của mình vào thứ Sáu (02-09-2011), kỷ niệm ngày Hồ Chí Minh đã chính thức tuyên bố độc lập của Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp vào năm 1945.

Trong một tuyên bố hôm Thứ Tư (31-08-2011), bà Clinton đã ca ngợi "tinh thần năng động và lạc quan", bà đã chứng kiến tại Việt Nam hai lần trong năm 2010. Bà cho biết Washington và Hà Nội đã tăng cường hợp tác trên một số vấn đề, chẳng hạn như nhân quyền, bảo vệ môi trường, thương mại và an ninh chung.

Bà Clinton cho biết Mỹ sẽ tiếp tục là "bạn và đối tác của Việt Nam" khi họ tạo ra một tương lai mới của hợp tác khu vực và toàn cầu.

Hoa Kỳ đã tìm kiếm các mối quan hệ chiến lược với Việt Nam, kẻ thù một thời của mình, mặc dù có các mối quan tâm nghiêm túc về những hạn chế khắc nghiệt của Hà Nội về tự do ngôn luận và đàn áp bất đồng chính kiến​​.

Việt Nam, về phần mình, đã được tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ trong một vụ tranh chấp với Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Các tàu sân bay Mỹ USS George Washington đến thăm Việt Nam vào tháng Tám, chuyến thăm thứ hai đến đất nước này trong hai năm.

Theo VOA
Xem thêm »

Đừng tiếc nuối những gì mà loài người đã loại bỏ đi!

(Những người cộng sản Việt Nam nên đọc lại thật kỹ học thuyết Mac và Anghen)

Hoàng Lại Giang


Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước …. Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ.” Và trên tinh thần dân tộc ấy, năm 1945 ,sau khi giành lại chính quyền từ tay thực dân Pháp, ông đã đặt tên nước là Việt Nam – Dân chủ – Cộng hòa và sau đó vào năm 1951 ông thuyết phục những người cộng sản đổi tên Đảng là Lao Động. Tên nước và tên đảng cho đến giờ vẫn được nhân dân trân trọng và bảo vệ . Đấy chính là lòng dân. Thời nào cũng vậy, lòng dân là cái không mua được, dù bất cứ giá nào. Lịch sử đã chứng minh qua nghìn năm đô hộ giặc Tàu và trăm năm đô hộ giặc Tây. Lịch sử cũng đã chứng minh khi lòng dân không yên thì mọi thứ bạo lực chỉ là hành động cứu cấp cho một thứ quyền lực phi nhân tính, vết nhơ không bao giờ rửa sạch. Lịch sử vẫn còn đó một Tần Thủy Hoàng, một Nê rô, nhà thơ bạo chúa, ở thời hiện đại là Hitle, là Stalin, là Mao trạch Đông là Ponpot!


Stalin

Những người Macxit là những người biết nắm qui luật, vận dụng qui luật, vận hành theo qui luật chứ không bao giờ bắt qui luật phải phục tùng ý chủ quan của con người. Và vì vậy, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu chắc chắn những người macxit chân chính sẽ vận dụng qui luật để cắt nghĩa chứ không vì hụt hẫng khi cái ý thức hệ ban sơ, cái lý tưởng chất đầy tính ảo tưởng một thời ấu trĩ không còn nữa mà qui kết cho bất kỳ cá nhân nào là phản bội chủ nghĩa Mác – Lê. Một Khơrútxốp, một Goocbachốp … không thể làm được việc đó! Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là do những người cộng sản tuy có khát vọng thay đổi xã hội, nhưng không chịu đọc Mác và Anghen, hoặc đọc lõm bõm, hiểu lõm bõm, hoặc chọn những điểm thích hợp từ những quan điểm cứng rắn của Stalin và Mao Trạch Đông, rồi dùng bạo lực buộc quy luật theo ý chủ quan để tự nó đi ngược lại sự tiến hóa của nhân loại, và coi đấy là kinh điển, là bất di bất dịch. Ngay cả Mác cũng chưa bao giờ khẳng định học thuyết của mình là hoàn toàn tương thích với mọi thời đại. Mác từng nói: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương cách phê phán thế giới cũ, để tìm được thế giới mới. Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi”. Ngay khi viết học thuyết về chủ nghĩa tư bản, qui luật giá trị thặng dư, qui luật phản ứng của giai cấp công nhân bị bóc lột…ở đầu thế kỷ 19 Mác và cả Anghen đều cho công trình của mình chỉ như một thứ dự báo. Nó chỉ phù hợp với thời điểm ấy, chứ không thể phù hợp với tất cả mọi thời điểm trước và sau nó.

Nhưng rất tiếc, một số nhà lãnh đạo Cộng sản thuộc địa, như Việt Nam, lại coi học thuyết Mác là bất di bất dịch, là kinh điển … ở mọi thời đại! Chính căn bệnh giáo điều xơ cứng của không ít nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời hiện đại ấy đã dẫn dân tộc và đất nước vào thế giới của chủ nghĩa xã hội bạo lực và giả tưởng … Và vì vậy sự hụt hẫng khi chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là có thật. Nhưng những người Cộng sản chân chính khi dũng cảm nhìn vào sự thật như đại hội VI Việt Nam năm 1986, thì chắc chắn tìm ra lối thoát cho dân tộc, còn nếu khăng khăng níu kéo cái chủ nghĩa đã sụp đổ, hy vọng vá víu lại …thì chắc chắn sẽ bị quy luật đào thải. Tôi nghĩ không ai đọc kỹ học thuyết Mác – Anghen bằng người Đức, bằng các triết gia Đức, trí thức Đức. Không ai đọc Lênin, hiểu mọi hành động của Lênin và Stalin bằng nhân dân Nga, trí thức Nga. Câu hỏi đặt ra là tại sao chủ nghĩa xã hội sụp đổ, nhân dân Nga, nhân dân các nước Đông Âu trong đó có nhân dân Đông Đức, không một hối tiếc, nếu không nói ngược lại là sự vui mừng như được làm người trở lại.

Ai cũng biết, chính thể mới của các nước CNXH bị sụp đổ không loại đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, vậy mà bao nhiêu lần bầu cử, không đảng Cộng sản nào giành được đa số phiếu để trở lại nắm chính quyền. Tôi nghĩ những nhà lãnh đạo Việt Nam nên nghiêm túc suy nghĩ kỹ càng điều này, để có quyết sách đưa đất nước bước vào hội nhập với cái thế và lực của chính mình hơn là câu nệ và nô lệ về ý thức hệ. Nô lệ về ý thức hệ mà đặt ý thức hệ trên quyền lợi dân tộc, thậm chí để mất cả đất và nước, biển và đảo, thì đấy là tội đồ, là bán nước! Vào thời ấy ( 1990), một số nhà lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt lo sợ mất CNXH, đã quay ngoắt 180 độ với cuộc cách mạng đổi mới của chính mình hôm qua (1986), cúi đầu , tôn vinh kẻ thù truyền kiếp là Trung Quốc, đàn áp ngay cả với đồng chí mình còn trung thành với cuộc cách mạng đổi mới tư duy. Thậm chí có người còn bao che cho tội ác dã man của lãnh đạo Trung Quốc ngang nhiên «dạy cho Việt Nam một bài học « trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, nói rằng : «Song dù có bành trướng thế nào đi chăng nữa thì Trung Quốc vẫn là nước XHCN » . Nhà lãnh đạo này rõ ràng đã đặt quyền lợi dân tộc, lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc xuống dưới ý thức hệ, và hậu quả là im lặng trước Hoàng Sa bị chúng đánh chiếm năm 1974 và năm 1988 chúng đánh chiếm 7 hòn đảo ở Trường Sa. Và bây giờ chúng ngang nghiên đưa tàu hải giám quấy phá ngay trên vùng biển thuộc quyền chủ quyền của ta, cắt cáp của tàu thăm dò dầu khí của ta từ tháng 5 năm 2011. Nhân dân bức xúc ,bày tỏ thái độ trước sự bành trướng của Trung quốc thì chính quyền tìm mọi cách ngăn chặn , thậm chí dùng cả bạo lực đối với người biểu tình. Bây giờ hãy còn quá sớm để quy đấy là tội bán nước, nhưng chắc chắn lịch sử rồi sẽ phán xét công minh, rạch ròi … Với người Việt Nam tội bán nước là tội không thể dung tha, bởi ở bên cạnh một đất nước to, gian manh và xảo quyệt luôn mưu dồ bành trướng, thì cái sự chống đỡ để giữ cho được từng tấc đất phải tính bằng xương máu của hết thế hệ này qua thế hệ khác. Người yêu nước không bao giờ đặt nhầm chỗ giữa ý thức hệ và độc lập toàn vẹn non sông !!! Ý thức hệ là tạm thời, là giai đoạn, còn chủ quyền toàn vẹn non sông là vĩnh cửu .

Hôm qua anh giúp tôi giải phóng dân tộc, anh là đồng chí chung chiến hào, nhân dân chúng tôi biết ơn anh, hôm nay anh cướp nước tôi, anh là kẻ thù của nhân dân tôi, chứ không thể là đồng chí được! Mọi sự cố tình nhầm lẫn đồng chí với kẻ thù là lừa bịp nhân dân, là mắc mưu kẻ thù của nhân dân! Lúc này không thể không xem xét lại ý niệm khái quát về ngữ nghĩa của hai từ đồng chí mà những người cộng sản đang dùng. Kẻ mưu đồ cướp nước ta, không thể là bạn của ta, càng không thể là đồng chí của ta.

Trở lại học thuyết Mac.Trước sau, loài người vẫn đánh giá cao học thuyết Mác, bởi tính kế thừa và phép biện chứng của nó. Nó chỉ cho nhân loại thấy con đường tất yếu mà bất kỳ chế độ nào cũng phải vượt qua. Càng về cuối đời Mác và Anghen đều điều chỉnh rất nhiều luận điểm trong học thuyết của mình cho phù hợp với qui luật, với xu thế tất yếu của lịch sử. Mặc dù vậy hai ông cũng chỉ dám mong mọi người coi công trình của hai ông như một đoán ước tương lai chứ đừng coi là một giá trị tuyệt đối. Sai lầm của nhiều người theo học thuyết Mác, trước hết là không đọc hết Mác trong từng giai đoạn của hai ông. Ngược lại, lại chọn Mác ở thời điểm hai ông ra Tuyên ngôn đảng Cộng sản, ra Tư bản luận (tập I ), … một học thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm cốt lõi, lấy bạo lực cách mạng đập tan xiềng xích bóc lột và thâu tóm quyền lợi về tay mình. Đến Lenin và đặc biệt là Stalin thì dùng chuyên chính vô sản để triệt tiêu những người khác chính kiến với mình, đưa công nông lên hàng lãnh đạo. Đấy là thời kỳ trí thức bị chà đạp, bị vô hiệu hóa, bị tiêu diệt nhiều nhất trong lịch sử nhân loại, không khác bao nhiêu so với thời Tần Thủy Hoàng. Đấy cũng là thời kỳ chủ nghĩa cộng sản coi chủ nghĩa tư bản là kẻ thù không đội trời chung. Thế giới phân cực thành hai phe, phe này quyết diệt phe kia và phe kia buộc phải chống lại, hình thành cuộc chiến tranh lạnh từ đây. Và từ đây, Việt Nam trở thành “tiền đồn” của phe xã hội chủ nghĩa. Từ đấy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam nằm trong “ba dòng thác cách mạng”, nằm trong cái thế “đứng mũi chịu sào” của “tiền đồn” phe xã hội chủ nghĩa chống chủ nghĩa đế quốc, để cho Liên Xô và Trung quốc rảnh rang …lo xây dựng đất nước mình, mà ta thì phải mang ơn ,mang nợ họ.

Hồi ấy, một Bí thư TW Đảng diễn thuyết ở nhà hát lớn Hà Nội về tiền đồn, về ba dòng thác cách mạng … tôi kiêu hãnh, tự hào … và “phổng mũi”. Nhưng năm tháng qua đi, nhìn lại dân mình, nước mình… sao thương quá! Bao xương máu đổ xuống! Bao người mẹ mất con, người vợ mất chồng. Có không ít người hôm nay vẫn chưa tìm được xác chồng con. Cuộc chia ly trong hận thù vẫn chưa hàn gắn nổi. Cuộc chia ly này nối cuộc chia ly kia. Bao triệu người bỏ nước ra đi bằng mọi giá – kể cả giá sinh mạng. Câu hỏi đặt ra, chưa thấy câu trả lời thỏa đáng: Vì sao đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất, vậy mà dân vẫn đói, rách … và bỏ nước ra đi? Chỉ cần nhìn ra các nước láng giềng như Thái Lan, Singapore…cũng thấy nhục, thấy đau quá rồi !

Một nhà lãnh đạo trong “tứ trụ triều đình” ở thập kỷ 80-90 tâm sự với tôi rằng: Chúng tôi phải chịu trách nhiệm về sự ra đi của bà con ở thời hậu chiến này. Họ không thấy lối ra – đặc biệt là lối ra cho con cháu họ – chứ không phải họ không yêu nước.

Đúng, đấy là thời kỳ đóng cửa cài then, thời kỳ hòa bình đen tối nhất trong lịch sử xây dựng. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Mác và ngay cả Lênin sau này đã bị lớp lãnh đạo theo Stalin và Mao bẻ cong bằng một thứ bạo lực mà đỉnh cao là Pônpốt, là Khơme Đỏ – một đồ đệ của chủ nghĩa Mao. Một thảm họa của loài người mà người hứng chịu là nhân dân Campuchia, nhân dân Việt Nam.

Biến một ảo tưởng «Thế giới đại đồng» thành hiện thực, những nhà lãnh đạo Cộng sản không dùng quyền lực mềm là sự thuyết phục, sự vận động mang tính đoàn kết truyền thống mà người ta dùng quyền lực cứng, đấy là “bạo lực cách mạng” của học thuyết Mác theo họ hiểu. Một thứ duy ý chí, bất chấp khoa học, qui luật, bất chấp truyền thống, đạo nghĩa.

… Tự do tư tưởng là một điều bình thường ở các nước phương Tây thì ở Việt Nam cho đến hôm nay tự do tư tưởng là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, mặc dù chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ngay trên quê hương của Mác và Lênin cùng một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa khác, trừ một vài nước ở phương Đông như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và Cu Ba ở châu Mỹ.

Khỏi nói Triều Tiên và Cu Ba vì ai cũng biết đấy là một loại xã hội đội lốt Mác – Lê, nhưng thực chất là xã hội phong kiến, cha truyền ngôi cho con, anh nhường ngôi cho em…Tôi nghĩ mình vẫn còn may mắn vì không phải là công dân của Triều Tiên và Cuba.

Còn Trung Quốc và Việt Nam. Về hình thức, đây là hai nước láng giềng có chung một thể chế chính trị là chủ nghĩa Mác – Lê – Mao. Nhưng tiềm ẩn bên trong mối quan hệ “16 chữ vàng” này là mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không thể hóa giải ngay được. Càng có độ lùi thời gian, người dân Việt Nam càng thấy rõ âm mưu thâm hiểm của dân tộc đại Hán. Người dân bình thường cũng biết Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa Mác, nhưng vẫn giương ngọn cờ CNXH để bịp dân họ và bịp một số nhà lãnh đạo của Việt Nam hám quyền, hám chức, hám lợi.

Đi ngược dòng thời gian, từ năm 1945, lợi dụng thế “kẹt” của Việt Nam trước họa xâm lăng trở lại của Tàu Tưởng và thực dân Pháp, dưới danh nghĩa đồng minh, những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp Việt Nam hết lòng. Bởi vì, cùng với Bắc Triều Tiên ở Đông Bắc Á, Việt Nam là khu đệm của họ ở Đông Nam châu Á. Đây là thời kỳ, người Tàu nhận ra trước tiên “môi hở răng lạnh”. Nhưng đây cũng là thời kỳ họ lợi dụng lòng tin của ta nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào khác. Cùng với Stalin, Mao buộc chủ tịch Hồ Chí Minh phải làm cải cách ruộng đất theo mô hình Hoa Nam. Chu Ân Lai buộc Phạm Văn Đồng phải ký hiệp định Giơnevơ theo dự kiến ban đầu của Chu – có thể được Mao phê chuẩn. Năm 1956 họ chính thức ép ta nhượng Đông Hoàng Sa cho họ. Năm 1957 họ thuyết phục ta xây dựng ga Đồng Đăng cách Ải Nam Quan gần 500m. Lúc đầu họ nói hết đường ray. Sau họ nói để 500m từ ga Đồng Đăng đến Ải Nam Quan làm khu đệm, tập kết vũ khí từ Nga, Trung Quốc và các nước XHCN anh em để Việt Nam tiếp tục cuộc chiến đấu giành độc lập hoàn toàn. Nhưng cũng chính họ, năm 1956 khuyên ta không nên đánh lớn, đánh qui mô ở miền Nam, không nên mở rộng chiến tranh …. Năm 1958, nhân sự kiện chiến hạm Mỹ xuất hiện ở eo biển Đài Loan, họ thương lượng với ta công nhận “… hải phận 12 hải lý” của họ. Trên tinh thần đồng chí, anh em, ta giúp họ giảm bớt áp lực từ phía Mỹ với một bức thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai (Tổng lý) ký ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đáng lẽ biết ơn ta thì hôm nay con cháu họ lại đem bức thư ấy ra làm cớ chiếm biển đảo của ta.

Năm 1958, họ chiếm Tây Hoàng Sa của ta, bị quân đội Việt Nam cộng hòa đánh và bắt giữ tàu ở Đà Nẵng.

Năm 1974, sau hiệp định Paris, Mỹ cam kết rút quân và không can thiệp vào Việt Nam, họ liền đánh chiếm Hoàng Sa của ta. Ta bại trận. Trên năm mươi chiến binh thuộc chính quyền Sài Gòn đã ngã xuống. Những người cách mạng im lặng! Đây là một thái độ phi văn hóa, phi truyền thống. Lịch sử không thể chấp nhận được! Những người Việt Nam đã ngã xuống vì tổ quốc Việt Nam, dù là người của bên nào cũng đáng được lịch sử vinh danh. Coi ý thức hệ cao hơn quyền lợi dân tộc là một sai lầm nguy hiểm, nếu không nói là tội lỗi! (Điều này được lặp lại ở những năm 90 của thế kỷ 20, như trên tôi đã nói).

Năm 1976 , họ xúi Khơme Đỏ đánh phá biên giới Tây Nam của ta.

Năm 1979, họ đánh biên giới phía Bắc nước ta. Đây là cuộc chiến phi nghĩa đáng xấu hổ nhất thế kỷ 20 của họ, nhưng không hiểu sao báo chí ta lại ‘’định hướng‘’… im lặng …cho đến hôm nay? Nhưng lịch sử thì không bao giờ ngừng trôi, nó sẽ chảy theo đúng dòng chảy của nó: Đó là Sự thật lịch sử.

Năm 1988, họ đánh chiếm một số đảo Trường Sa của ta, sáu mươi bốn chiến sĩ của ta đã ngã xuống ở biển Đông.

Lịch sử Việt – Trung ngoài sự giúp đỡ chí tình cho cuộc chiến giải phóng dân tộc của chúng ta do những nguyên nhân sâu xa từ quyền lợi dân tộc của họ như tôi đã trình bày ở trên, còn có một sự thật lịch sử khác nữa vẫn còn lưu khá đậm trên giấy trắng mực đen và đặc biệt trong nhân dân Việt Nam – hết thế hệ này qua thế hệ khác: Đó là tư tưởng đại Hán có lịch sử từ nghìn năm qua, đừng ai vội nghĩ dễ xóa nhòa, hoặc dùng ý chí chủ quan bắt mỗi người dân Việt Nam phải quên đi, để chỉ nghĩ tới “16 chữ vàng” hôm nay.

Lịch sử quan hệ Việt – Trung cho chúng ta những bài học thật sâu sắc:

- Không có sự giúp đỡ nào trong sáng, vô tư cả!

– Không thể có bốn phương vô sản đều là anh em!

Bây giờ thì tôi thấy chính trị gia người Anh Lord Palmaroton là đúng, khi ông nói: “Chúng ta không có thù vĩnh viễn cũng như bạn muôn đời. Chỉ có quyền lợi dân tộc là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi”.

Tôi nghĩ cũng có không ít nhà lãnh đạo Việt Nam tâm huyết với vận mệnh đất nước, nhưng không có điều kiện đọc hết Mác – Anghen – Lênin.Vì vậy tốt nhất là mời những nhà trí thức thông hiểu nhiều ngoại ngữ đọc lại Mác – Lênin từ bản tiếng Đức và tiếng Nga. Mác là một nhà duy vật biện chứng. Chúng ta nên tìm hiểu cho kỹ bước đường phát triển tư tưởng của Mác từ khi Mác gia nhập Liên minh những người Cộng sản ở Bruxen – 1847 – viết “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” – 1848, cho đến khi qua đời năm 1883, nhà triết học này đã bao nhiêu lần phải đính chính mình, bao nhiêu lần phải điều chỉnh học thuyết của mình và bày tỏ những thái độ, những ứng xử khác nhau, thậm chí đối lập nhau … Từ chủ nghĩa xã hội bạo lực, Mác – Anghen chuyển qua chủ nghĩa xã hội dân chủ xuất phát từ nguyên nhân nào? Và bao giờ? Xã hội giữa hai thời kỳ ấy có những gì đặc biệt tác động đến tư tưởng hai ông? Vì sao ngày 17 tháng 11 năm 1852 Mác – Anghen giải tán “Đồng minh những người Cộng sản”, ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa dân chủ – ôn hòa – của Lassall – một học trò của mình. Phải tìm câu trả lời về chuyển biến lớn lao này của Mác – Anghen trên con đường chính trị của mình từ thực tiễn xã hội châu Âu. Có phải giai đoạn đầu của phong trào công nhân độc lập Đức kết thúc từ năm 1852 sau cái án của Koren – một người Cộng sản Đức? Từ năm 1852 đến năm Lassall giương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội dân chủ – ôn hòa, năm 1862, là mười năm. Và có phải chính Mác – Anghen đã thành lập Đảng dân chủ xã hội Đức – chính Đảng xã hội chủ nghĩa vào tháng tám năm 1869? Đây có phải là giai đoạn thứ hai của phong trào công nhân Đức – Giai đoạn xã hội chủ nghĩa dân chủ – ôn hòa?

Tôi nghĩ quá trình chuyển biến tư tưởng Mác và Anghen đều có trong toàn tập của hai ông. Và Lênin cũng vậy. Ông là một nhà Macxít biện chứng. Từ thực tiễn ông uốn nắn ngay lý luận của mình. ông nói: “Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản” (Lênin toàn tập. NXB Tiến Bộ tập 45 trang 428). Cũng như chính sách kinh tế mới – NEP – có trong toàn tập Lênin. Nhưng không hiểu vì sao không ai dám nói. Ngay một nhà lãnh đạo như Phạm Văn Đồng cũng phải chờ đến năm 2000 mới dám viết trên báo nhân dân. Vì sao? Một cách vận dụng Mác – Lênin như vậy đã nuôi dưỡng chủ nghĩa giáo điều cho nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam. Và hôm nay, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ mang tính toàn cầu, người Việt Nam vẫn phải giữ nguyên cái “Chủ nghĩa xã hội bạo lực” mà Mác và Anghen đã phủ định từ năm 1868.

Đừng bao giờ nghĩ rằng nhân dân Việt Nam, trí thức Việt Nam im lặng trước một thể chế chính trị đã bị chính Mác và Anghen phủ định, bị cả nhân loại loại trừ sau bảy mươi năm thử nghiệm trên đất Nga, trên đất Đức và Đông Âu là đồng thuận với nhà nước. Tôi nghĩ đấy là một sự im lặng đáng sợ chứ không nên coi thường! Ai hiểu được nhân dân mình, người ấy chính là lãnh tụ của họ. Ai coi thường nhân dân, ai coi quyền lực là sức mạnh vô song, kẻ ấy sẽ không có gì ngoài những nguyền rủa của hôm nay và mai sau. Một Nero bạo chúa, một Tần Thủy Hoàng, một Stalin, một Mao Trạch Đông, một Ponpot …vẫn còn đó bản chất tàn bạo của nó. Lịch sử là vậy, không quên công ơn và nhớ rất rõ tội ác.

…Tổng thống Medvedev không thể im lặng được trước một số người còn sùng bái Stalin vì sự hiểu biết hạn hẹp do bưng bít thông tin, buộc lòng ông phải cho giải mã những điều được coi là tối mật của chủ nghĩa cộng sản. Ông nói: “Nếu hôm nay nhắm mắt trước tội ác này (Stalin ra lệnh giết hai mươi hai ngàn sĩ quan [binh sĩ ?] Ba Lan năm 1940) thì trong tương lai những tội ác như vậy có thể lặp lại, muốn hay không, ở dạng này hay dạng khác, ở các nước khác nhau. Vì vậy mặc dù điều này diễn ra tuy gay gắt, những tội ác như vậy là không bao giờ hết thời hiệu. Những kẻ gây ra chúng sẽ phải chịu trách nhiệm bất kể đã mất cách đây bao nhiêu năm”.

Đúng, những kẽ gây ra tội ác với nhân dân phải chiụ trách nhiệm bất kể đã mất cách đây bao nhiêu lâu !

Đúng, người có văn hoá bao giờ cũng là người biết sợ sự thật lịch sử. Bởi đơn giản sự thật lịch sử hiện diện cùng thời gian hôm nay và cả mai sau: VINH QUANG và TỘI ÁC !

HLG

30-5-2011
Xem thêm »

Việt Nam và vũ khí Mỹ

(Tiếng Nói Nước Nga) Hoa Kỳ đang xem xét khả năng tháo bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam. Điều này đã được Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb công bố trong thời gian chuyến thăm Hà Nội. Giữa Lầu Năm Góc và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã diễn ra những cuộc tham vấn "thận trọng nhưng tích cực" bàn về triển vọng hợp tác quân sự-kỹ thuật của hai nước.

Nhận định này là lời một thành viên Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Quốc hội Hoa Kỳ, sau khi Hà Nội và Washington ký kết thỏa thuận về hợp tác trong quân y, còn các đội tàu chiến đã tiến hành những cuộc tập trận chung. Tuy nhiên, hợp tác quân sự-kỹ thuật giữa hai nước còn chưa trở thành hiện thực mà mới dừng ở mức ý định.

Chuyên viên Nga Viktor Sumski lãnh đạo Trung tâm ASEAN ở Đại học Tổng hợp quan hệ quốc tế Matxcơva nhận xét: “Từ dự định đến khâu thực hiện có thể là khoảng cách khá lớn. Bởi ở Hoa Kỳ để xóa bỏ lệnh cấm vận cần phải có sự đồng thuận nhất trí của cả hai đảng. Thế mà hiện tại mối quan hệ giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa ở Mỹ còn xa mới đạt đến sự hài hòa”.

Dù vậy, có thực tế đáng chú ý là sự ấm lên rõ rệt trong quan hệ của Hoa Kỳ và Việt Nam, kể cả trên bình diện quân sự. Những đổi thay tiến bộ trong mối quan hệ giữa hai nước từng là đối địch, được lý giải bởi tình hình bùng phát hiện thời trong cuộc tranh chấp lãnh thổ tại khu vực. Ngay từ năm 2009, Bắc Kinh đã đệ ra Liên Hợp Quốc một tấm bản đồ đánh dấu đường ranh giới hàng hải của CHND Trung Hoa. Tương ứng với tấm bản đồ tự ý này, Trung Quốc tuyên bố độc quyền của mình đối với 80% diện tích biển Nam Trung Hoa-Biển Đông. Bắc Kinh công nhiên củng cố tham vọng lãnh thổ bằng sức mạnh hùng hậu về kinh tế và quân sự đang tăng trưởng nhanh chóng. Lập trường ngày càng cứng rắn như vậy của Trung Quốc buộc các nước hữu quan trong cuộc tranh chấp này phải tìm kiếm cho mình những đồng minh mạnh mẽ. Mà đối trọng chính của Trung Quốc tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương ngày nay chính là Hoa Kỳ.

Đồng thời, những cố gắng hành động của Trung Quốc nhằm phá vỡ lớp bảo trợ của Hoa Kỳ vốn đã hình thành trong hệ thống an ninh khu vực Đông Nam Á hiển nhiên cũng khơi lên mối quan ngại ở nước Mỹ. Trong nỗ lực hạn chế sự bành trướng của Trung Quốc, người Mỹ đứng về phía các đối thủ của CHND Trung Hoa. Cụ thể là Việt Nam. Vì vậy, lời tuyên bố của các chính khách Mỹ, rằng Hoa Kỳ đang xem xét khả năng xóa bỏ lệnh cấm vận cung cấp vũ khí cho Việt Nam, có thể xem như là một trong những thành tố chính sách của Hoa Kỳ nhằm kiềm chế Trung Quốc.

Tuy nhiên cần thấy rằng, khi tìm kiếm những đối tác mới và xây đắp mối quan hệ hợp tác kỹ thuật-quân sự đa phương, Việt Nam không chỉ nhắm tới Hoa Kỳ. Hà Nội đang thảo luận với New Delhi về việc Ấn Độ sẵn sàng tham gia xây dựng các hạm tàu chiến dành cho Việt Nam. Tàu khu trục tên lửa của Ấn Độ được phép ghé vào các hải cảng Nha Trang và Hạ Long. Không thể không nói tới một đối tác gắn bó dài lâu và giầu kinh nghiệm là Nga, đã và đang thực hiện thành công chương trình cung cấp đến Việt Nam lô sản phẩm quân sự hiện đại như tàu ngầm, tàu chiến, các máy bay và trực thăng.
Xem thêm »

Tàu Trung Quốc đối đầu với tàu chiến Ấn Độ ngoài khơi Việt Nam

(Socmai-01/09/2011) Một tàu chiến không xác định của Trung Quốc yêu cầu một tàu hải quân Ấn Độ giải thích sự hiện diện của nó trong Biển Đông - vùng biển ngoài khơi Việt Nam vào tháng Bảy, tờ Financial Times cho biết vào thứ năm 01-09-2011.

Tàu INS Airavat cập cảng Việt Nam.

Tờ báo có trụ sở tại London báo cáo rằng năm người quen thuộc với vụ việc cho biết nó xảy ra trong vùng biển quốc tế ngay sau khi tàu tấn công đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ rời một cảng ​​tại Việt Nam.

Đây là vụ mới nhất trong một loạt các hành động trong năm nay đã gây ra mối lo ngại về sự gia tăng sức ép quân sự lên các quốc gia trong khu vực của Bắc Kinh - đặc biệt là Việt Nam và Philippines.

Trung Quốc nói rằng họ có chủ quyền đối với gần như toàn bộ biển Đông, tuyến đường thương mại quan trọng toàn cầu, nơi mà các tuyên bố quyền sở hữu chồng lên quần đảo có tiềm năng giàu dầu mỏ Trường Sa với các tuyên bố chủ quyền của Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Brunei và Malaysia.
Việt Nam và Trung Quốc có tranh chấp lâu đời riêng biệt trên quần đảo Hoàng Sa về phía bắc.
INS Airavat thăm Nha Trang ở Nam Trung Bộ Việt Nam và cảng phía bắc của thành phố Hải Phòng vào giữa tháng Bảy.

"Một cái gì đó đã xảy ra", một nguồn tin từ những người biết việc này nói với AFP, thêm vào đó là không rõ ràng nó xảy ra chính xác cách xa bờ biển của Việt Nam. "Đây là một cách tiếp cận Trung Quốc điển hình, nguồn tin cho biết thêm rằng "tàu Trung Quốc cố gắng để khẳng định rằng đây là lãnh thổ của họ" và "bạn đang làm gì trong lãnh thổ của tôi? ".
Bộ Ngoại giao Việt Nam có thể không ngay lập tức đáp ứng yêu cầu bình luận, và Đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội lúc đó không ở Việt Nam.

Trong những tháng gần đây, Philippines và Việt Nam đã phản đối những gì họ nói là Trung Quốc quấy rối tàu thăm dò dầu, ngư dân vùng biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào tháng Bảy đã lên án hành vi "đe dọa" , nơi Bà nói Mỹ có một lợi ích quốc gia.

Một báo cáo của Lầu Năm Góc hôm thứ Tư tuần trước cho biết Trung Quốc đang ngày càng tập trung vào sức mạnh hải quân, vì nó đặt ưu tiên ngày càng tăng về bảo đảm tuyến đường biển chiến lược và các khu vực giàu khoáng sản trong vùng biển Đông.

Tuy nhiên, sau bài đăng của Financial Times, Hải quân Ấn Độ đã bác bỏ sự việc này.

Phát ngôn viên Hải quân Ấn Độ Satish cho biết trên báo The Hindu: "Tàu INS Airavat trở về từ Việt Nam mà không có bất kỳ cuộc đối đầu nào với một tàu Trung Quốc,"

Hoa Kỳ đã nhiều lần phản đối việc sách nhiễu và gây hấn đối với các tàu bè qua lại vùng biển giàu tài nguyên này, nói rằng bảo đảm tự do lưu thông hàng hải là "lợi ích quốc gia" của Mỹ.
Ngoài chỉ trích việc Việt Nam hợp tác với Hoa Kỳ, giới phân tích Trung Quốc cũng cho rằng Việt Nam đang tích cực lôi kéo Ấn Độ tham gia vào tranh chấp ở Biển Đông.

Một chương trình mới đây của truyền hình Trung Quốc CCTV nói Phó Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, Tư lệnh hải quân Việt Nam, từng mời Ấn Độ lập cơ sở thường xuyên tại Nha Trang.
Xem thêm »

Quan hệ quốc phòng ngày càng chặt chẽ giữa Việt Nam và Ấn Độ khiến Trung Quốc khó chịu

Trọng Nghĩa
Nếu sự kiện tàu Trung Quốc gây khó dễ đối với tàu đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ được xác minh, thì đấy là lần đầu tiên sự cố nảy sinh giữa hải quân hai cường quốc này tại vùng Biển Đông. Giới phân tích đã gắn liền sự kiện này với thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền trong khu vực, và với việc các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đang khuyến khích New Delhi tăng cường quan hệ với khu vực hầu cân bằng thế lực của Bắc Kinh.

Đối với Trung Quốc, hơn 80% diện tích Biển Đông thuộc chủ quyền của họ, và trong những năm gần đây, hải quân Trung Quốc càng lúc càng gia tăng áp lực, nhằm khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh trong khu vực. Các hành động nhiều khi rất hung hăng của Trung Quốc đã làm cho các nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền càng lúc càng lo ngại.

Trong tình hình đó, để khỏi phải đơn độc đối phó với Trung Quốc, nhiều quốc gia Đông Nam Á, đi đầu là Việt Nam, đã đẩy mạnh chiến lược tăng cường quan hệ với các cường quốc bên ngoài khu vực, cũng quan tâm đến vấn đề Biển Đông, với hy vọng là giảm thiểu được sức ép của Bắc Kinh. Ngoài Hoa Kỳ, Ấn Độ là cường quốc thứ hai được chú ý trong tư cách là một đối tác đáng tin cây giúp cho Đông Nam Á bớt bị Trung Quốc chèn ép.

Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Shri AK Antony duyệt hàng quân danh dự nhân Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng ngày 12/10/2010 tại Hà Nội.

Về phần mình, New Delhi cũng ngày càng quan ngại trước tiềm lực quân sự gia tăng của Trung Quốc, đồng minh thân cận của Pakistan, đối thủ truyền thống của Ấn Độ. Trong khuôn khổ chính sách ‘’Đông tiến’’ (Look East) đề ra từ đầu thập niên 1990, New Delhi ngày càng muốn thắt chặt thêm quan hệ mọi mặt với vùng Đông Nam Á, trong đó có quan hệ quốc phòng.

Trong lãnh vực quân sự, New Delhi ngay từ đầu, đã có những quan hệ khá chặt chẽ với Việt Nam, nhất là trong vấn đề vũ khí vì lẽ Ấn Độ là quốc gia có rất nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực sản xuất và bảo trì vũ khi, thiết bị quân sự do Liên Xô (và sau này là Nga) sản xuất vốn đang được quân đội Việt Nam sử dụng.

Theo ghi nhận của giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam và châu Á tại Học viên Quốc phòng Úc, thì vào năm 2000, hai bên đã ký kết một thỏa thuận hợp tác quốc phòng trong đó có cả việc Ấn Độ đồng ý giúp Việt Nam nâng cấp đội máy bay MiG-21 của mình, cũng như đội hộ tống hạm và tàu tấn công nhanh.

Qua năm 2007, Việt Nam và Ấn Độ đã nâng cấp quan hệ song phương lên thành quan hệ đối tác chiến lược, và ngay sau đó, Ấn Độ đã cung cấp cho Việt Nam với một số lượng lớn phụ tùng thay thế để duy trì hoạt động của đội tàu có từ thời Liên Xô, đồng thời hiện đại hóa năng lực chống tàu ngầm của quân đội Việt Nam. Ngoài ra, tàu hải quân Ấn Độ bắt đầu ghé cảng Việt Nam thường xuyên hơn.

Theo nhân xét của giáo sư Thayer, hợp tác quốc phòng Việt Ấn thể hiện một sự tương đồng chiến lược, giúp cho hai bên mở rộng khả năng ứng phó với Trung Quốc và các cường quốc khác. Qua Việt Nam, Ấn Độ có thêm điều kiện tăng cướng quan hệ với ASEAN và mở rộng ảnh hưởng trong khu vực Đông Á, còn nhờ Ấn Độ, Việt Nam tránh được việc bị lệ thuộc vào một cường quốc duy nhất.

Quan hệ quốc phòng được tăng cường giữa Việt Nam với Ấn Độ đương nhiên không làm cho Trung Quốc hài lòng. Ấn Độ đã từng có những mối liên lạc quốc phòng chặt chẽ với Singapore, Indonesia hay Malaysia, Thái Lan, những nước cùng chia sẻ quan tâm với họ về vùng biển Andaman, bên Ấn Độ Dương, hay eo biển Malacca, phía Nam Biển Đông.

Tuy nhiên, các quan hệ đó dường như không làm Bắc Kinh khó chịu bằng việc tàu chiến Ấn Độ lần ngược lên phía Bắc Biển Đông, trong khuôn khổ các thỏa thuận ký kết với Việt Nam. Hành động chưa từng thấy là chận đướng xét hỏi chiếc INS Airavat có thể được xem là phương cách Trung Quốc biểu thị thái độ bực bội của mình.
Xem thêm »

Socmai TV - Kênh nhạc trẻ | 1080HD - Super HD



Những đoạn video cực hot!

Nếu máy bạn có kết nối chậm, có thể mất hơn 2 phút để tải kênh. Nếu vẫn không xem được vui lòng nhấp vào đây để tải lại.


Share
Xem thêm »

ITV - Kênh âm nhạc trực tuyến

Xem thêm »

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

Urope Music Hit TV - Nhạc Âu Mỹ

Xem thêm »

Mixy TV - Nhạc vũ trường cực mạnh

Xem thêm »

Tám người biểu tình đã bị kết án "lật đổ chính quyền"

(Socmai - 30/08/2011) Ít nhất tám nhà hoạt động chính trị bị bắt giữ về tội lật đổ tại Việt Nam trong một cuộc đàn áp bắt đầu sau khi thủ tướng được bổ nhiệm lại, cố vấn pháp lý của họ cho biết vào thứ ba.

Các nghi phạm, những người đã tham gia vào cuộc biểu tình chống Trung Quốc gần đây (21-08-11) và các hoạt động khác ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh phía bắc như Nghệ An, Lê Quốc Quân nói với AFP.

Tám người này thuộc Công giáo Catholic, đã chính thức bị bắt giữ vì "các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", ông nói. Họ bao gồm Paulus Lê Văn Sơn, một blogger.

Blogger Paulus Lê Văn Sơn

Có nhiều lo ngại rằng việc tái bổ nhiệm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho một nhiệm kỳ hai vào cuối tháng Bảy báo hiệu một không khí khó khăn hơn cho những người bất đồng chính kiến ​​trong nhà nước độc tài cộng sản độc đảng.

Các nghi phạm trong số ít nhất 13 nhà hoạt động đang bị chính quyền nhắm mục tiêu trong cuộc đàn áp, Quân cho biết, có "nhiều lý do" cho thấy 5 người khác có thể đã bị giam giữ.
Không có bình luận từ các quan chức Việt Nam.

Việt Nam cho biết họ đã đạt được tiến bộ đáng kể về quyền con người.
Theo hệ thống luật pháp của đất nước, mọi người có thể được tổ chức cho thẩm vấn ban đầu trước khi chính thức bị bắt.

"Tôi lo lắng cho họ", ông nói thêm.

Ông nói rằng các nhà hoạt động đã tham gia vào các cuộc biểu tình gần đây chống lại các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nơi tranh chấp căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh leo thang trong năm nay.

Họ cũng đã nghiên cứu "cuộc đấu tranh không bạo lực", đã ký một kiến ​​nghị cho việc phóng thích nhà bất đồng chính kiến ​​nổi tiếng Cù Huy Hà Vũ, và phản đối một dự án khai thác bauxite gây tranh cãi ở Tây Nguyên, Quân cho biết.

Cảnh sát chống lật đổ đã được sử dụng chống lại những người bất đồng chính kiến ​​khác, bao gồm giảng viên Pháp gốc Việt Paulus Lê Văn Sơn và blogger Phạm Minh Hoàng, người đã bị kết án ba năm tù trong tháng này.

Hôm thứ Hai quan chức VN cho biết hơn 10.000 tù nhân được đặc xá để kỷ niệm Quốc khánh 2 tháng 9.

Theo AFP
Xem thêm »

Tàu tên lửa tốc độ cao mới của Hải quân Trung Quốc

(Socmai-30/08/11) Hải quân Trung Quốc với các trang thiết bị cực kỳ hiện đại, vũ lực hùng hậu như tàu khu trục, tàu sân bay đã bắn vào ngư dân Việt Nam làm vỡ tàu, chết người hoặc bắn và bắt cóc các tàu cá của ngư dân gặp nạn hoặc tránh bão trên vùng biển mà ngư dân Việt Nam cho là còn thuộc chủ quyền Việt Nam làm chết người và bắt giam đòi tiền chuộc một cách có hệ thống, đồng thời cướp đoạt toàn bộ phương tiện đánh bắt cá và sản phẩm đánh bắt của ngư dân Việt Nam, rồi đưa ra tòa phạt vi cảnh,và gần đây nhất là hành động vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của VN, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia VN. Đặc biệt, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn muốn biển Đông nằm trong quyền kiểm soát của mình.

Dưới đây là những hình ảnh mới nhất đăng trên Tân Hoa Xả ngày 30-08-2011 của một loại tàu phóng tên lửa tốc độ cao.





Xem thêm »

Việt Nam không cho phép nước khác can thiệp vào mối quan hệ Việt-Trung

(Socmai - 30/08/11) Trung Quốc và Việt Nam cam kết giải quyết tranh chấp trong vùng biển Đông thông qua tham vấn và đàm phán vào thứ Hai 30-08-11.

Bên ngoài một cuộc họp giữa Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt và Phó Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh.

"Trung Quốc sẵn sàng làm việc với Việt Nam để bảo vệ vững chắc lợi ích chiến lược và quan hệ tổng thể cũng như hòa bình và ổn định trong vùng biển Đông bằng cách tăng cường truyền thông và tư vấn cũng như ngăn chặn hành động khiêu khích bên ngoài mà có thể làm hỏng quan hệ hai nước", Tướng Liệt cho biết.

"Trung Quốc phản đối làm phức tạp tình hình và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và khẳng định giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn và đàm phán", Tướng Liệt nói.

"Hiện nay, cả hai bên cần nỗ lực thúc đẩy phát triển chung, tăng sự tin tưởng lẫn nhau thông qua hợp tác, và tăng cường sự ổn định bằng cách gia tăng sự tin tưởng lẫn nhau", ông nói.

Nguyễn Chí Vinh cho biết Việt Nam rất coi trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc và hy vọng làm việc với Trung Quốc thông qua tăng cường giao tiếp và hợp tác trong mọi lĩnh vực giữa hai nước và quân đội hai bên để bảo vệ hòa bình và ổn định khu vực.

Ông nói hai nước nên giải quyết tranh chấp trong vùng biển Đông thông qua tin tưởng lẫn nhau và hiệp thương hữu nghị, và không cho phép bất kỳ lực lượng bên ngoài nào làm hỏng mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc bằng cách can thiệp vào tranh chấp.

Nguồn: China, Vietnam to resolve disputes by consultation
Xem thêm »

SCTV2 - Truyền hình trực tuyến SCTV2

Xem thêm »

SCTV1 - Truyền hình trực tuyến SCTV

Xem thêm »

SCTV16 - Kênh phim hành động nổi tiếng

Xem thêm »

BTV - Truyền hình Bình Thuận

Xem thêm »

HGTV - Truyền hình Hậu Giang

Xem thêm »

BRT - Truyền hình Vũng Tàu

Xem thêm »

THVL2 - Truyền hình Vĩnh Long

Xem thêm »

THVL1 - Truyền hình Vĩnh Long

Xem thêm »

HTV9 - Truyền hình TP. Hồ Chí Minh

Xem thêm »

H1 - Đài truyền hình Hà Nội

Xem thêm »

VTV4 - Đài truyền hình Việt Nam

Xem thêm »

VTV3 - Đài truyền hình Việt Nam

Xem thêm »

VTV1 - Đài truyền hình Việt Nam

Xem thêm »

Truyền hình Tuổi Trẻ

Xem thêm »

PPT - Kênh phim và giải trí Tuổi Trẻ

Xem thêm »

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

Mong muốn thay đổi Việt Nam để xiết chặt mối quan hệ Việt-Mỹ

(Socmai-29/08/11) Tác giả Hunt R. Albert của Bloomberg News. Bài viết xuất bản ngày 28-08-2011.
Phạm Bình Minh, có cha là người đã chiến đấu để đuổi Mỹ ra khỏi Việt Nam, làm việc nhiệt thành để nâng cao sự quan tâm của kẻ cựu thù đến đất nước ông.

Việt Nam mong muốn một sự hiện diện của Hoa Kỳ vì lý do kinh tế và là một sự cân bằng với Trung Quốc, siêu cường thế giới. Minh là bộ trưởng ngoại giao mới, cha của ông là một cựu quan chức của chế độ Cộng sản Hồ Chí Minh trong cuộc xung đột cay đắng của những năm 1960 và 1970, sau đó, ông là Bộ trưởng ngoại giao khi Việt Nam đụng độ với Trung Quốc.

"Người ta không thể tưởng tượng mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã phát triển nhanh như thế nào," Minh, 52 tuổi, nói trong một cuộc phỏng vấn tại Hà Nội. "Sau 16 năm bình thường hóa, chúng tôi đã đến giai đoạn mà chúng tôi đã phát triển mối quan hệ trong gần như tất cả các lĩnh vực".
Trong khi Hoa Kỳ đã không hoàn toàn quên đi nỗi đau của cuộc chiến tranh đó, Việt Nam, những người phải chịu đựng nhiều hơn, ôm lấy kẻ thù cũ của họ.

Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia đang phát triển, Mỹ là nhà nhập khẩu lớn nhất của hàng hoá Việt Nam. Hia nước thường xuyên giao lưu quân sự, và tháng này, hai nước đã ký hiệp ước đầu tiên liên quan đến y học quân sự. Năm ngoái, cán bộ Việt Nam đã quan sát thấy một hoạt động quân sự của Mỹ trên một tàu khu trục hải quân, tàu USS John S. McCain, đặt theo tên của hai đô đốc, người cha và ông nội của Thượng nghị sĩ Đảng Cộng Hòa John McCain từ Arizona, là một tù nhân chiến tranh tại Hà Nội trong sáu năm .

Mối quan hệ chiến lược

Bây giờ, các bộ trưởng ngoại giao cho biết, hai nước đang thảo luận để nâng cấp thành quan hệ chiến lược, ông tuyên bố, sẽ là tốt cho sự ổn định của khu vực, phù hợp với phương pháp tiếp cận "đa phương" Việt Nam, bước sang "một cấp độ mới".

Không ai trong số này, các nhà ngoại giao hàng đầu Việt Nam khẳng định, là nhằm mục đích để chống lại Trung Quốc. Tuy nhiên, nói về chủ nghĩa đa phương và khuyến khích vai trò của Mỹ trong sự ổn định của khu vực là không thể đánh giá cao chế độ Bắc Kinh.

Việt Nam có một lịch sử lâu dài xung đột với Trung Quốc, sự bùng nổ gần đây nhất là vào năm 1979, khi TQ quay trở lại xâm nhập qua biên giới. Người Việt Nam biết Trung Quốc là một siêu cường và muốn có quan hệ tốt đẹp với anh chàng to lớn mà không cần tìm kiếm những người bạn xa xôi.

Tuy nhiên, có những căng thẳng, đặc biệt là trên lãnh hải ở Biển Đông. Gần đây, đã có các cuộc biểu tình công cộng ở Việt Nam chống lại Trung Quốc, mặc dù chính phủ Hà Nội muốn ngăn chặn, vì sợ rằng tinh thần dân tộc có thể tràn ra không kiểm soát.

Washington cam kết

Đặt lợi ích chung sang một bên, mối quan hệ với Hoa Kỳ rất phức tạp. Việt Nam không chắc chắn rằng Mỹ cam kết tới châu Á trong dài hạn, và các quan chức phàn nàn rằng khu vực này là một ưu tiên thấp của Washington. Trong một cuộc phỏng vấn một giờ với Charlie Rose được phát sóng ngày 21 Tháng Bảy, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Barack Obama, Tom Donilon, phát biểu rất dài về Trung Quốc, nhưng không bao giờ đề cập đến Việt Nam.

Ông Minh nói rằng ông muốn "nhất quán" trong chính sách của Mỹ, nên chú ý nhiều hơn "để khu vực Đông Nam Á - Gây phiền hà liên tục trên quyền con người ở Việt Nam và các chính sách chính trị. Tiến trình này được thực hiện, đặc biệt là ở khu vực tự do tôn giáo: Jim Webb, một thượng nghị sĩ Mỹ đến từ Virginia và một cựu chiến binh Việt Nam, ghi nhận trong một chuyến thăm Hà Nội khi ông lần đầu tiên tham dự một buổi lễ Công giáo Việt Nam 20 năm trước đây chỉ có một số ít các tín đồ; một vài năm trước đây, khi ông tham dự đã có 2.000 người tại một thánh lễ Giáng sinh. Tuy nhiên, vài chục người bất đồng chính kiến ​​đã bị giam giữ trong vài năm qua, và cuộc đàn áp trên báo chí là thường xuyên.

Người khổng lồ

Mặc sù quan hệ ngoại giao tốt hơn so với Trung Quốc. Tuy nhiên, với khoảng 90 triệu người, dân số lớn thứ 14 trên thế giới, và tổng sản phẩm trong nước $ 102 tỷ USD, Việt Nam bị đối xử khác biệt hơn so với Trung Quốc khổng lồ.

Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách, những người lo lắng về sự gây hấn của Trung Quốc ngày càng tự tin, muốn liên minh sâu sắc hơn với Việt Nam. Họ tìm đến một thế hệ trẻ như Bộ trưởng Minh, Ông học sau đại học tại trường Fletcher Tufts - Đại học Luật và Ngoại giao và đã dành nhiều năm làm việc tại Liên Hợp Quốc và tại Đại sứ quán Việt Nam tại Washington.

Độ sâu của các hiệp ước trong những năm tới phụ thuộc vào sự tiến triển của hệ thống kinh tế, chính trị và pháp lý của Việt Nam. Đã tăng kể từ khi những người Cộng sản mở các hệ thống doanh nghiệp tư nhân hơn hai thập kỷ trước đây. Thu nhập bình quân đầu người là khoảng $ 1.200, gần 10 lần so với một phần tư thế kỷ trước, Việt Nam đã hoàn toàn tham gia vào cộng đồng kinh tế toàn cầu. Mỹ đầu tư vào VN 10 tỷ USD, nhỏ nhưng phát triển nhanh chóng. Các công ty như Intel (INTC) và Chevron Corp đang đầu tư lớn.

Lao động giá rẻ

Tuy nhiên nền kinh tế, vẫn còn thúc đẩy chủ yếu bằng lao động giá rẻ. Đảng Cộng sản quan liêu ảnh hưởng tinh thần doanh nhân. Tham nhũng tràn lan. Mặc dù ông tuyên bố rằng đó là một "ưu tiên hàng đầu" của chế độ, Minh thừa nhận rằng giảm tham nhũng "là khó khăn."

Nghịch lý tồn tại: việc sử dụng Internet bình quân đầu người là một trong số cao nhất trong khu vực và tỷ lệ mù chữ là tương đối thấp, nhưng hệ thống giáo dục kém.

Một trong những viên ngọc quý là một trung tâm giáo dục Hồ Chí Minh dựa trên chính sách liên kết với Trường Đại học Harvard của John F. Kennedy. Đây là một phần của chương trình Harvard Việt Nam, của đạo diễn Tom Vallely, một cựu chiến binh đã dành phần lớn cuộc sống của mình kể từ khi có nổ lực cải thiện quan hệ Mỹ-Việt Nam.

Cọp Châu Á

Một vài năm trước đây, trung tâm đã công bố một nghiên cứu về những thách thức phải đối mặt với Việt Nam. Nó kết luận rằng những dấu hiệu của nền kinh tế Á Đông thành công ở Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan - minh bạch, tham nhũng ít, hệ thống giáo dục tốt và một cấu trúc khả thi của pháp luật - tất cả đều đang thiếu tại Việt Nam.

"Những quốc gia cạnh tranh trên cơ sở lao động giá rẻ có thể không nhiều, theo định nghĩa vượt ra khỏi tình trạng thu nhập thấp", theo nghiên cứu đó.

Các nhà lãnh đạo trẻ tuổi chẳng hạn như Bộ trưởng ngoại giao phải đối mặt với những thách thức khó khăn. Mối quan tâm lớn nhất: chính sách tinh tế giữa việc duy trì mối quan hệ với các siêu cường bên cạnh và tăng cường quan hệ với Washington, và hạn chế tham nhũng và cải cách hệ thống giáo dục, nghiên cứu của Harvard mô tả là rất hạn chế.

Điều đó đặt ra một khả năng thú vị, một trong những bộ trưởng ngoại giao nói rằng ông sẽ hoan nghênh: Harvard, tổ chức đào tạo nhiều kiến ​​trúc sư của chiến tranh Việt Nam, có thể đi đầu trong việc tạo ra một trường đại học đầu tiên ở Mỹ có lớp học tiếng Việt.

Hunt R. Albert là biên tập viên điều hành cho Bloomberg News tại Washington - Bài viết thể hiện Các ý kiến riêng của ông.

Để liên hệ với các tác giả ở chủ đề này: Albert Hunt ở Washington tại ahunt1@bloomberg.net
Để liên hệ với các biên tập viên chịu trách nhiệm cho câu chuyện này: Max Berley tại mberley@bloomberg.net.
Xem thêm »