Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012

Độc chiêu khống chế Trung Quốc của Ấn Độ


11/8/12- Ưu tiên hàng đầu của Hải quân Ấn Độ là Ấn Độ Dương chứ không phải Biển Đông. Đây là khẳng định mới đây của Tư lệnh Hải quân Ấn Độ, Đô đốc Nirmal Verma. Phát biểu này dường như nhằm tránh đối đầu trực diện với Trung Quốc, nhưng thực tế lại tiết lộ một độc chiêu “siết cổ” con Rồng châu Á


Tư lệnh Hải quân Ấn Độ, Đô đốc Nirmal Verma

Làm cao với Mỹ, tránh đối đầu Trung Quốc

Theo tờ Business Standard, phát biểu trên của người đứng đầu Hải quân Ấn Độ được đưa ra 7 tháng sau khi Tổng thống Mỹ Barack Obama công bố chiến lược mới của Mỹ nhằm vào Trung Quốc mang tên "Chiến lược tái cân bằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương" và coi Ấn Độ như một đồng minh quan trọng.

Phát biểu trong một cuộc họp báo ngày 8/8 tại New Delhi, Đô đốc Nirmal Verma nói: "Bất chấp các tuyên bố về điều chỉnh chính sách của Mỹ, khu vực quan tâm chủ yếu của chúng tôi kéo dài từ Eo biển Malacca đến phía tây Vùng Vịnh và từ phía nam Mũi Hảo Vọng đến Thái Bình Dương. Biển Đông cũng là khu vực quan tâm, nhưng không phải là trọng điểm hoạt động của Hải quân Ấn Độ".

Theo Đô đốc Verman, triển vọng hợp tác hải quân Mỹ-Ấn là không cao và mối quan tâm của Ấn Độ là làm giảm các căng thẳng trên biển. Ông nói: "Chúng tôi không muốn căng thẳng trên Biển Đông gây lo ngại cho việc vận chuyển hàng hóa, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia. Tôi tin tưởng các cường quốc lớn sẽ nỗ lực can dự ở Biển Đông và họ cũng sẽ áp dụng các biện pháp làm giảm căng thẳng trên Biển Đông".


Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon panetta trong chuyến thăm Ấn Độ hồi tháng 6/2012

Trên thực tế, Mỹ và Ấn Độ đã tổ chức nhiều cuộc thảo luận kéo dài về tình hình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tháng 4/2012, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề chính trị và quân sự của Mỹ Andrew Shapiro đã hội đàm với các quan chức Ấn Độ nhằm khôi phục đối thoại chính trị-quân sự giữa hai nước sau 6 năm tạm ngừng.

Tháng 6/2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A K Antony. Tháng 6/2012, cuộc Đối thoại Chiến lược Mỹ-Ấn lần thứ ba đã thảo luận chi tiết về tình hình châu Á-Thái Bình Dương.

Tuyên bố chung sau cuộc đối thoại này nhấn mạnh: "Mỹ và Ấn Độ có chung quan điểm về hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở châu Á, khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hai bên cam kết hợp tác với nhau và với các nước khác trong khu vực nhằm phát triển một cơ cấu toàn diện, cân bằng và mở cửa. Hai nước nhất trí tăng cường hơn nữa các cuộc tham khảo ý kiến của nhau về tình hình khu vực Ấn Độ Dương".

Lời cảnh báo gián tiếp với Trung Quốc

Những phát biểu của người đứng đầu lực lượng Hải quân Ấn Độ cho thấy Ấn Độ có sự quyết đoán và độc lập riêng. Lời lẽ của Đô đốc Verma thể hiện có vẻ như New Delhi chỉ quan tâm tới “sân nhà” của mình là khu vực Ấn Độ Dương, mà không mấy chú ý tới một Biển Đông đang nóng bỏng.

Điều này cho thấy Ấn Độ khôn khéo về mặt ngoại giao và đang thực thi chính sách cân bằng trong quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc.

Nhưng những tiết lộ của Đô đốc Verma cho thấy Hải quân Ấn Độ tuy không can dự trực tiếp vào Biển Đông song đang thực hiện những bước đi nhằm kiểm soát khu vực này, và đặc biệt là nắm chặt yết hầu của Trung Quốc. Hải quân Ấn Độ không ngừng tăng cường lực lượng, kiểm soát chặt eo biển Malacca và mở rộng tầm hoạt động trong khu vực.


Hải quân Ấn Độ không ngừng tăng cường lực lượng trong những năm gần đây

Trong cuộc họp báo tại New Delhi, Đô đốc Verma thông báo chi tiết kết quả thực hiện chương trình xây dựng lực lượng Hải quân Ấn Độ trong thời gian gần đây. Theo đó, trong 5 năm qua, Hải quân Ấn Độ đã được trang bị thêm 15 tàu chiến nổi, một tàu ngầm hạt nhân tấn công (INS Chakra thuê của Nga).

Còn 46 chiếc tàu chiến nữa vẫn đang trong quá trình đóng mới, trong đó có 43 chiếc được đóng tại Ấn Độ và 3 chiếc đang đóng tại Nga.

Bộ Quốc phòng Ấn Độ cũng đang tìm mua trực tiếp 49 tàu chiến khác từ các công ty sản xuất trong nước. Trong số đó có 7 tàu khu trục nhỏ sẽ sớm được khởi công tại công ty Mazagon Dock ở Mumbai và Garden Reach Shipbuilders & Engineers (GRSE) ở Kolkata theo dự án 17A; 4 tàu tấn công tốc độ cao được đóng tại GRSE.

Ngoài ra, một tàu huấn luyện sẽ được đóng tại một xưởng đóng tàu của tư nhân; 8 tàu quét thủy lôi, trong đó 2 chiếc đóng tại Hàn Quốc và 6 chiếc được sản xuất trong nước trên cơ sở công nghệ được Hàn Quốc chuyển giao.


Tàu ngầm INS Charka của Ấn Độ

Dự án đóng mới 6 tàu ngầm thông thường theo dự án 75 (I) cũng sắp được thông qua. Ấn Độ cũng đang xem xét kinh phí để mua 1 tàu lặn sâu và một tàu cứu hộ để sử dụng trong trường hợp tàu ngầm gặp nạn. Trong vài tháng tới, Ấn Độ cũng sẽ mở gói thầu mua 4 tàu đổ bộ, 16 tàu săn ngầm hoạt động tại các vùng nước nông, 1 tàu huấn luyện tổng hợp và 2 tàu hỗ trợ lặn.

Theo Đô đốc Verma, trong vòng 5 năm tới mỗi năm Hải quân Ấn Độ sẽ đưa vào biên chế ít nhất 5 tàu chiến nổi và 5 tàu ngầm. Phần lớn các tàu mới được tăng cường này sẽ được triển khai ở các quần đảo Andama và Nicobar thuộc Vịnh Bengal, cách đất liền 1.200 km và là nơi kiểm soát các tuyến đường vận chuyển quốc tế dẫn đến Eo biển Malacca. Đây là điểm yết hầu mà tất cả các tàu thuyền từ Tây Á đến Biển Đông phải đi qua.

Chặn yết hầu Trung Quốc

Ngày 31/7, Ấn Độ đã khánh thành căn cứ không quân hải quân INS Baaz trên đảo Great Nicobar gần Eo biển Malacca. Căn cứ này sẽ hỗ trợ cho các máy bay chiến đấu của Không quân Ấn Độ tại Car Nicobar. INS Baaz nằm gần eo biển Malacca hơn 300 km so với Car Nicobar.

Tuy nhiên, INS Baaz chưa có đường băng đủ dài cho máy bay chiến đấu hạ cánh. Hải quân Ấn Độ đang lên kế hoạch xây dựng một sân bay dài khoảng 3.000 m nhằm giải quyết vấn đề này.

Đô đốc Verma cũng cho biết Hải quân Ấn Độ muốn tăng mạnh số lượng tàu chiến tại căn cứ Port Blair, trung tâm đầu não của khu vực Andaman và Nicobar. Đô đốc Verma cũng đánh giá căn cứ INS Baaz có một vị trí chiến lược trọng yếu. Căn cứ này sẽ giúp Hải quân Ấn Độ mở rộng tầm hoạt động cũng như thời gian hoạt động của tàu chiến và máy bay tuần tra trong khu vực.


Eo biển Malacca và đường đi của dầu mỏ về Trung Quốc

Không nói trực tiếp, song có thể hiểu một khi kiểm soát được eo Malacca tức là Ấn Độ đã khống chế được Trung Quốc. Eo Malacca nối liền Biển Đông (rộng hơn là Thái Bình Dương) với Ấn Độ Dương. Trên tuyến vận tải này, có tới 80% lượng dầu mỏ nhập khẩu và một tỷ lệ hàng hóa tương đương của Trung Quốc phải đi qua.

Nếu nguồn năng lượng này bị cắt, nền kinh tế của Trung Quốc khó mà “sống” nổi. Thêm vào đó, tuyến hàng hải này bị Ấn Độ (hay bất kỳ nước nào khác khống chế), hàng hóa ra vào Trung Quốc sẽ bị đình trệ gần như hoàn toàn.

Người Trung Quốc hiểu rõ điều này hơn ai hết. Có lẽ, chính vì vậy mà họ đã và đang sốt sắng tính tới các phương án nhằm tránh bị phụ thuộc vào eo biển Malacca.

Phương án thứ nhất là thuyết phục Thái Lan mở một kênh đào nối từ biển Andaman thuộc Ấn Độ Dương vào biển Đông. Phương án thứ hai là mở tuyến đường xuyên suốt từ cảng Gwadar của Pakistan về Tân Cương. Phương án thứ ba là “đi nhờ” đường Myanmar rồi chuyển dầu mỏ về các tỉnh Tây Nam.


Các căn cứ trên quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ nằm chặn ngay eo biển Malacca

Tuy nhiên, cả ba phương án trên đều không thực sự khả thi. Con kênh mà Trung Quốc muốn đào vắt qua Thái Lan mang tên Karat có thể cần tới 20 tỷ USD. Còn tuyến đường xuyên Pakistan sẽ khó có thể được bảo đảm vì những trở ngại an ninh mà Islamabad đang phải đối mặt.

Chưa kể đây lại là một nước đồng minh của Mỹ. Khả thi nhất vẫn là con đường đi qua Myanmar với các chặng từ đường biển, đường sông rồi lại lên đường bộ. Nhưng thực tế thời gian qua cho thấy, Myanmar đang “vẫy” khỏi vòng kiểm tỏa của Trung Quốc.

Những tiết lộ của Đô đốc Verma cho thấy Ấn Độ đang áp dụng chính bài miếng của người Trung Quốc. Đó là nguyên tắc giả trá được nêu trong Binh pháp Tôn Tử. Theo đó, người Ấn Độ “có thể đánh mà làm như không thể đánh, muốn đánh mà làm như không cần đánh, muốn đến gần mà làm như lùi ra xa”.

Theo Xã Luận
Xem thêm »

Tranh chấp biển Đông sẽ dẫn đến chiến tranh ?

11/8/2012 - Tác giả Dave Summer - Trong nhiều trường hợp nổ súng, nhiều người đã tử trận trong khi các quốc gia cố gắng để thiết lập chủ quyền, hầu hết các hòn đảo đều biệt lập, hoặc không có người ở.

Trong bài viết OGPSS - introduction to China đăng trên Chinese energy supplies and usage, tôi đã đề cập rằng một trong những mối quan tâm bắt đầu là những lời dối trá hiển nhiên trong các tranh chấp về quyền sở hữu của một số mỏ dầu ngoài khơi. Tranh chấp về quyền sở hữu vẫn được tiếp tục, và tuần này cũng không có ngoại lệ, với việc Trung Quốc lập thành phố mới, Tam Sa, trên đảo Phú Lâm để tăng cường khẳng định chủ quyền của họ trong khu vực. Đảo Phú Lâm nằm trong chuỗi Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ở Biển Đông.


Quyền sở hữu lãnh thổ, và tiềm năng khai thác dầu khí, là một vấn đề tranh chấp giữa một số nước, mặc dù Trung Quốc đã quản lý Phú Lâm sau khi đánh chiếm hòn đảo năm 1974 với Việt Nam Cộng Hòa.

Chính phủ Trung Quốc tuyên bố thành lập Tam Sa vào tháng trước, nói rằng vai trò của nó là để quản lý các quần đảo tranh chấp, Hoàng Sa, Trường Sa và hầu hết Biển Đông, vùng biển được cho là có trữ lượng dầu khí lớn. Hai quần đảo này được tuyên bố chủ quyền toàn bộ hoặc một phần bởi Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.

Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) gần đây đã tìm kiếm lợi ích ngoài nước thông qua việc mở thầu thăm dò 9 lô dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam.

Một khu vực xa hơn về phía nam, gần quần đảo Trường Sa, tranh chấp bao gồm Philippines - nước đã nhận được hồ sơ dự thầu cho một số lô, Philippines cũng tuyên bố khu vực này nằm trong vùng lãnh hải 200 hải lý của họ. Các lợi ích mà Trung Quốc đạt được bằng cách tuyên bố chủ quyền ở Quần đảo Trường Sa có thể được nhìn thấy bằng cách nhìn vào những thay đổi mà Trung Quốc đang tiến hành trên các đảo mà họ đã chiếm, trong tương phản về vấn đề này với các nước lân cận khác.


Chi tiết hơn, các khu vực tranh chấp có thể được chia thành nhiều địa điểm cụ thể, những tên gọi trở nên quen thuộc hơn nếu những tranh chấp này vẫn tiếp tục dai dẳng. Họ hoàn toàn có thể tiếp tục tranh chấp trong khi khu vực được cho là chứa đến 213 tỷ thùng dầu, nhiều hơn so với lượng dự trữ dầu khí của Ả rập Saudi.

Trận đấu đang mang lại những cầu thủ bổ sung, Trung Quốc đã cáo buộc Hoa Kỳ can thiệp sau khi Ngoại trưởng Clinton đã cố gắng để xoa dịu những căng thẳng.

Tranh chấp leo thang trong khu vực không phải là mới, và trong cuốn sách "Chiến tranh tài nguyên" Michael Klare liệt kê một số cuộc xung đột đã xảy ra trong nhiều năm đến năm 2001 - thời đểm cuốn sách được viết. Trong nhiều trường hợp nổ súng, nhiều người đã tử trận trong khi các quốc gia đã cố gắng để thiết lập chủ quyền, hầu hết các hòn đảo đều biệt lập, hoặc không có người ở.

Năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam, kết quả một tàu hải quân Việt Nam bị đánh chìm, một số binh lính đã tử trận.

Năm 1988, Trung Quốc và Việt Nam đã đọ súng tại đảo Colin (xem video), Việt Nam mất ba tàu và 64 binh sĩ tử trận.

Năm 1992, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đổ quân đ1nh chiếm đảo D'Eldad Reef (đá En Đát). Ngoài ra, Trung Quốc đã bắt giữ 20 tàu vận chuyển hàng hóa trong các vụ tranh chấp gần đây. Cả hai bên đã cho máy bay tuần tra như là một cách tuyên bố lãnh thổ và Quốc hội Việt Nam (năm 2012) đã thông qua một đạo luật thiết lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này đã làm tăng căng thẳng với Trung Quốc.

Những xung đột không chỉ giữa Trung Quốc và Việt Nam, năm 1995, chính phủ Phillipine phát hiện ra rằng Trung Quốc đã xây dựng một căn cứ quân sự tại đảo đá ngầm Vành khăn, cách khoảng 150 km từ đảo Palawan, và như Michael Klare ghi chú, đảo này nằm trong vùng đặc quyền 200 hải lý của Philippines. Hoa Kỳ và Philippines đã có Hiệp ước tương hỗ (từ năm 1951) và tàu chiến Trung Quốc đã từng ngăn chặn tàu Philippines tuần tra bảo vệ chủ quyền, tạo ra những căng thẳng mới trong khu vực. Theo một đánh giá của Army War College, đã ghi nhận sự tăng cường quân sự tại đây đang diễn ra:

Bên cạnh kế hoạch hiện đại hóa Quân đội (bao gồm hải quân) của Trung Quốc, Brunei, Malaysia, lndonesia đã mua máy bay từ Vương quốc Anh. Malaysia mua tàu khu trục tên lửa điều khiển từ Vương quốc Anh và lndonesia mua 16 tàu hộ tống từ Đức. Ngay cả Philippines, nước đang gặp khó khăn tài chính, cũng có máy bay Ý và cũng đang xem xét thêm 14 tỷ USD cho hiện đại hóa quốc phòng. Khả năng của một cuộc chạy đua vũ trang khu vực là thực tế.

Tình hình tại Đá Vành Khăn tiếp tục phức tạp. Như Strategy World nhấn mạnh:

Với hơn ba thập kỷ, Trung Quốc đã sử dụng một chiến lược gặm dần kể từ lần đầu tiên tàu Trung Quốc thả phao (cho mục đích chuyển hướng, hỗ trợ ngư dân của họ), tiếp theo là nơi trú ẩn tạm thời (một lần nữa, đối với các ngư dân Trung Quốc) trên các đảo nhỏ hoặc rạn san hô trên mặt nước nhưng không có người ở. Nếu không ai trong số các bên tranh chấp khác loại bỏ các phao hoặc nơi tạm trú, Trung Quốc xây dựng một cấu trúc thường xuyên hơn để hỗ trợ ngư dân nước họ. Nơi trú ẩn này dẽ được nhân viên quân sự, những nhân viên này, tất nhiên, có radio, radar, và một vài vũ khí. Nếu không có 1 cuộc tấn công nhỏ nào vào các cơ sở này, Trung Quốc sẽ mở rộng và cảnh báo rằng các cơ sở là lãnh thổ của Trung Quốc và bất kỳ nỗ lực để loại bỏ nó sẽ được xem như là một hành động chiến tranh.

Việt Nam đã cố gắng để chống lại các căn cứ của Trung Quốc trong năm 1974 và 1988 nhưng đều bị đánh bại cả hai lần.


Kể từ sự cố đánh chiếm ban đầu, các cơ sở nhỏ ở Đá Vành Khăn đã được mở rộng thành một căn cứ quân sự. Trung Quốc tạo sự hiện diện này để biện minh cho các hoạt động thăm dò dầu ngoài khơi Đảo Palawan. Trung Quốc cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để bắt đầu khai thác dầu khí quanh Palawan, khiến Philippines đưa Hải quân đến vùng tranh chấp.

Về phía bắc biển Đông, các giàn khoan CNOOC 981 của Trung Quốc đã bắt đầu (vào đầu tháng Năm) để khoan dầu xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Đây là vùng nước sâu đầu tiên mà công ty CNOOC đã tiến hành khoan, 15 giếng trước đó được khoan bởi các đối tác của CNOOC. Tàu thăm dò dầu Ocean Oil 708 hiện cũng làm việc trong khu vực tranh chấp.

Những căng thẳng đã tăng tốc nhanh chóng kể từ khi Michael Klare dự đoán trong sách "Chiến tranh tài nguyên" hơn một thập kỷ trước đây, chỉ dẫn cho thấy rằng Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch chiếm biển Đông để bảo đảm nhu cầu năng lượng trong tương lai. Với việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc, vấn đề trở nên nghiêm trọng và gây nhiều mối quan tâm về trong kế hoạch tương lai của họ, kể từ khi vấn đề lãnh thổ có thể dẫn đến xung đột nhiều hơn mà chúng ta đã thấy cho đến nay trong khu vực.

Tác giả Dave Summers

---------------------
Xem thêm »

Trung Quốc "vỡ mộng" cái gọi là "thành phố Tam Sa"

11/8/12- Việc quản lý và phát triển cái gọi là “thành phố Tam Sa” có thể sẽ mang tới nhiều thách thức ngoài dự kiến đối với chính phủ Bắc Kinh sau khi tuyên bố khánh thành trái phép thành phố này vào cuối tháng 7, tờ Wantchinatimes đưa tin hôm 10/8.

Trên thực tế, cái mà Trung Quốc gọi là “thành phố Tam Sa” không hề được công nhận bởi bất cứ quốc gia nào trong khu vực và vì vậy, nó “không đủ tư cách” để tham gia bất cứ hoạt động giao dịch, hợp tác hay liên kết quốc tế nào, các chuyên gia quốc tế nhận định.

“Thành phố Tam Sa” nằm trên đảo Phủ Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và được chính phủ Bắc Kinh tuyên bố khánh thành trái phép vào ngày 24/7.

Theo Cơ quan Giám sát Kinh tế Trung Quốc có trụ sở ở Bắc Kinh, mặc dù Tam Sa chỉ là một thành phố cấp quận với diện tích bề nổi rất nhỏ cùng bộ máy chính quyền đơn giản, dân số chỉ khoảng 1.000 người nhưng lại là thành phố có diện tích vùng biển bao quanh lớn nhất Trung Quốc.

Đây có thể là lý do khiến Bắc Kinh cương quyết thành lập cho bằng được cái gọi là “thành phố Tam Sa” bất chấp sự phản đối của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế khiến mâu thuẫn chủ quyền trên Biển Đông ngày càng leo thang.


Lễ khánh thánh trái phép cái gọi là "thành phố Tam Sa" của Trung Quốc diễn ra hôm 24/7 trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa

Trung Quốc kỳ vọng nhờ Tam Sa để phát triển hoạt động du lịch, đánh bắt hải sản và đẩy mạnh ngành công nghiệp dầu khí, đưa Bắc Kinh vươn xa hơn ra Biển Đông.

Chính vì vậy, ngay sau khi tuyên bố thành lập Tam Sa, Trung Quốc đã nhanh chóng thực hiện các thủ tục nhằm “hợp thức hóa” thành phố gây tranh cãi này bằng việc tổ chức bầu hội đồng nhân dân, bầu thị trưởng thành phố, đưa quân đội ra đồn trú hay xây dựng các cơ sở “dân sự”…

Tuy nhiên, với sự chuẩn bị “chu toàn” nhằm mục đích phát triển thành phố mới với 3 mũi chiến lược là:du lịch – hải sản – dầu khí, chính quyền Bắc Kinh đã không thể lường trước những thách thức sẽ gặp phải tại một thành phố còn chưa hoàn thiện cơ sở hạ tầng như Tam Sa.

Về hoạt động đánh bắt, do số lượng tàu bè còn hạn chế cùng với sự quản lý chưa chặt chẽ của chính phủ, hàng năm ngư dân Trung Quốc chỉ đánh bắt được khoảng 80.000 tấn cá trên vùng biển gần Tam Sa, Wantchinatimes dẫn lời nguồn tin trong nước.

Trong khi trước đó, chính quyền tỉnh Hải Nam từng tuyên bố sản lượng đánh bắt ở khu vực này có thể lên tới 2 triệu tấn.

Ngoài ra, tuyến đường viện trợ cho các tàu cá cũng được coi là một trong những trở ngại lớn nhất đối với ngành công nghiệp đánh bắt của Trung Quốc trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Theo ước tính, hoạt động tiếp lương thực và nhu yếu phẩm cho một tàu cá trên vùng biển gần “thành phố Tam Sa” sẽ mất ít nhất là một ngày và một đêm.

Chình vì vậy, ngư dân Trung Quốc được khuyến khích phải tự đảm bảo cho hoạt động của mình trên biển khiến khả năng đánh bắt xa bờ rất hạn chế.


Hình ảnh một đoàn tàu cá Trung Quốc ngang nhiên hoạt động trên Biển Đông

Trước thách thức này, Bộ Ngư nghiệp Trung Quốc đã đề xuất kế hoạch xây dựng trạm tiếp tế trên biển và điều tàu hỗ trợ cỡ lớn tới thành phố Tam Sa để giúp ngư dân khắc phục khó khăn.

Tuy nhiên, hành động này của Bắc Kinh đã vấp phải sự phản đối kịch liệt từ các nước có tuyên bố chủ quyền chung trên Biển Đông bao gồm Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei.

Trong khi đó, vấn đề phát triển du lịch ở thành phố Tam Sa cũng đang gặp không ít khó khăn.

Vì thành phố mới được Trung Quốc thành lập này nằm trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa – đang là tâm điểm tranh chấp của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á nên trước hết, về mặt chính trị, thành phố này “chưa đủ tư cách”, cũng như không đảm bảo được yếu tố “an toàn” cho du khách.

Chưa kể cơ sở vật chất ở thành phố Tam Sa còn quá thô sơ. Trên toàn đảo Phú Lâm nơi Trung Quốc khẳng định chủ quyền và đưa quân đội ra quản lý chỉ có duy nhất một nhà nghỉ gồm 40 phòng. Vì vậy, đối với khách du lịch muốn nghỉ qua đêm trên đảo, số lượng không thể vượt quá 100 người.

Việc du khách không thể lưu lại qua đêm đồng nghĩa với việc họ không có thời gian để mua sắm hay sử dụng các dịch vụ nghỉ ngơi, giải trí trên đảo, và vì vậy, doanh thu từ du lịch là yếu tố không mấy khả quan.

Trong khi đó, các quan chức trong ngành ở Trung Quốc lại cho rằng khách du lịch có thể nghỉ qua đêm ngay trên thuyền, vừa đảm bảo lịch trình lại giúp giảm bớt lượng rác thải trên đảo.

Tuy nhiên, dù sao thì việc phát triển du lịch ở một thành phố mà cơ sở vật chất còn chưa đảm bảo vẫn là vấn đề không đơn giản và chưa thể khắc phục một sớm một chiều theo kiểu “nóng sốt” của Trung Quốc.


Đảo Phú Lâm thuộc quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm giữ

Ngoài những thách thức trong lĩnh vực đánh bắt và du lịch, hoạt động khai thác dầu khí trên vùng biển bao quanh cái gọi là “thành phố Tam Sa” cũng khiến Bắc Kinh phải “đau đầu”.

Trong điều kiện hiện nay, Tam Sa chưa được trang bị công nghệ thăm dò và khoan khai thác dầu khí trong khu vực giàu tài nguyên trên Biển Đông.

Vì thế, chính quyền “thành phố trẻ nhất Trung Quốc” này cần sự giúp đỡ của các công ty dầu khí quốc doanh.

Thế nhưng, một khi để các công ty này tham gia khai thác, chính quyền thành phố Tam Sa lại lo ngại lợi ích của mình trên biển sẽ bị “tước đoạt” vì chưa thể làm chủ được công nghệ và hoàn toàn phụ thuộc vào bên ngoài.

Theo đó, để khắc phục vấn đề này, chính quyền Tam Sa cho biết có khả năng sẽ ban hành một loại thuế nhằm đảm bảo lợi ích được phân chia công bằng từ hoạt động khai thác dầu khí quanh đảo, Zheng Gangsheng – giám đốc nghiên cứu kinh tế hàng hải thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Đông nói.

Thành phố Tam Sa được Bắc Kinh tuyên bố thành lập hôm 24/7 trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các nước ASEAN trên Biển Đông ngày càng căng thẳng.

Việt Nam, Philippines cùng các nước có tuyên bố chủ quyền trong khu vực kiên quyết phản đối “thành phố Tam Sa”, trong khi Mỹ cũng lên tiếng chỉ trích Bắc Kinh đã “hành động một cách đơn phương và mang tính gây hấn”.

Mặ dù vậy, bất chấp dư luận quốc tế và khu vực, Trung Quốc vẫn liên tiếp có những hành động ngông cuồng, xâm phạm nghiêm trọng tới chủ quyền của nhiều nước cũng như tỏ thái độ “thiếu hợp tác” trong đối thoại khiến cho mâu thuẫn trên Biển Đông ngày càng khó giải quyết bằng biện pháp hòa bình, theo tờ Wantchinatimes hôm 10/8.

Theo Dân Trí
Xem thêm »

Báo Trung Quốc: Việt Nam nhiều “SU” nhất Đông Nam Á

11/8/12- Bài bình luận và phân tích về tiềm lực quân sự của Việt Nam đăng trên tạp chí “Bình luận quân sự Hán Hòa” số tháng 8/2012 được đăng lại trên một số báo chí phương Tây khẳng định với hệ thống vũ khí và cách bố trí hiện nay cho thấy Việt Nam đang rất chú trọng đến khu vực Biển Đông.


Su-27 biên chế trong trung đoàn tiêm kích 940, thuộc sư đoàn không quân 372 trấn giữ miền trung đất nước. Trong ảnh, các cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị kỹ thuật cho tiêm kích Su-27PU cho cuộc bắn đạn thật từ ngày 31/7-3/8 của Quân chủng Phòng không - Không quân.

“Với sự trợ giúp của Nga trong khoảng 5 năm trở lại đây, quân đội Việt Nam đã ra sức đẩy mạnh xây dựng hải quân, không quân và trọng điểm quốc phòng của nước này đã hoàn toàn dịch chuyển ra phía Biển Đông”, tờ Tạp chí “Bình luận quân sự Hán Hòa” mở đầu bài phân tích về tiềm lực và chiến lược quân sự của Việt Nam.

Cũng theo tạp chí này, sự thể hiện rõ nét nhất trong chiến lược quốc phòng của Việt Nam chính là hầu hết các loại vũ khí mới của Việt Nam đều được mua từ Nga, trong đó có không ít vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới như tiêm kích tầm xa SU-30 MKV, hệ thống tên lửa bờ đối hạm Yakhont, tàu chiến kiểu mới Gepard 3.9… và các loại vũ khí đều được bố trí ở khu vực Nam Trung Bộ. Cùng với việc hiện đại hóa hệ thống vũ khí, khí tài, Việt Nam còn tích cực xây dựng sân bay, căn cứ hải quân, tu bổ các căn cứ cũ…

Tạp chí này còn dành khá nhiều “đất” để ca ngợi 2 chiếc tàu hộ vệ tên lửa hiện đại Gepard 3.9 mà phía Nga vừa bàn giao cho Việt Nam đồng thời khẳng định sắp tới Việt Nam sẽ tiến hành tự đóng mới thêm vài chiếc tàu kiểu này ngay tại trong nước. “Gepard 3.9 là tàu hộ vệ tên lửa hiện đại nhất của hải quân Việt Nam hiện nay với mức giãn nước lên tới 2.100 tấn, tốc độ tối đa có thể đạt tới 52 km/h, hành trình tác chiến tối đa 5.000 hải lý và được trang bị khoảng 16 quả tên lửa hạm đối hạm Uranus. Loại tên lửa này có tầm bắn tối đa 130 km, tốc độ cận âm (Mach 0,9), dẫn đường bằng radar pha chủ động”, tạp chí này viết. Theo kế hoạch sơ bộ, những chiếc Gepard 3.9 thuộc giai đoạn tiếp sẽ được trang bị tên lửa hạm đối hạm siêu âm, có tầm bắn trên 290 km. Điều này giúp lực lượng tên lửa hạm đối hạm của hải quân Việt Nam chiếm được ưu thế rất lớn về kĩ thuật trong khu vực.


Các chiến hạm Gepard 3.9 của Việt Nam mang tên Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ.

Ngoài Gepard 3.9, tháng 8/2010 Việt Nam cũng đã tiếp nhận 4 xe phóng tên lửa bờ đối hạm Yakhont. Mỗi xe có 4 quả tên lửa cùng với đó là 2 giàn radar phòng vệ bờ biển có cự ly thám trắc lên tới 450 km, có khả năng theo dõi chủ động đồng thời 30 mục tiêu, theo dõi bị động 50 mục tiêu và xử lý đồng thời 200 mục tiêu. Tuy nhiên, đây chưa phải là những con số cuối cùng bởi có một số nguồn tin cho rằng Nga và Việt Nam đang thảo luận để xây dựng thêm một tiểu đoàn tên lửa bờ đối hạm Yakhont ở khu vực phía Nam. Sự tăng cường mạnh mẽ lực lượng tên lửa phòng vệ này cho thấy Biển Đông chính là khu vực được Việt Nam ưu tiên hàng đầu. Đáng chú ý, hầu hết các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đều nằm cách bờ biển chưa đến 300km trong khi Yakhont có tầm bắn trên 300km.

Không chỉ mạnh tay trong việc củng cố năng lực hải quân, Việt Nam còn là quốc gia đang sở hữu đội ngũ tiêm kích chiến đấu tiên tiến của Nga lớn nhất Đông Nam Á. Ước tính hiện nay Việt Nam có khoảng 24 máy bay chiến đấu đa năng SU-30 MKV/MK2 và 12 chiếc SU-27 SK. Tầm bay tác chiến của các dòng SU này đều có thể bao phủ toàn bộ các quần đảo mà Việt Nam đang tuyên bố chủ quyền.


SU-30MKV của không quân Việt Nam có tầm tác chiến bao phủ toàn bộ Biển Đông góp phần giữ vững chủ quyền đất nước.

Không chỉ “điểm danh” khá đầy đủ số vũ khí hiện đại của Việt Nam, Tạp chí “Bình luận quân sự Hán Hòa”còn cho thấy họ biết khá nhiều khi tiết lộ “sư đoàn 370 là lực lượng tinh nhuệ nhất của không quân Việt Nam” và những chiếc SU-30 MKV của sư đoàn này đang được bố trí ở căn cứ Biên Hòa. Cùng với sư đoàn 370, đội ngũ SU-27 SK của Việt Nam hiện đang thuộc biên chế của sư sư đoàn 372 đóng ở Phù Cát – Bình Định và những dấu hiệu mới nhất cho thấy sư đoàn này cũng đang bắt đầu được trang bị SU-30 MKV.

Việc bố trí hầu hết cơ số SU-27 và SU-30 tại các tỉnh miền Nam càng cho thấy sự ưu tiên và mối quan tâm của Việt Nam trong kế hoạch bảo vệ chủ quyền biển đảo bởi tầm tác chiến của các loại tiêm kích này bao phủ hoàn toàn khu vực biển Đông.


Hồi tháng 5/2012, tập đoàn xuất khẩu vũ khí Rosoboronexport và công ty Sukhoi của Nga đã bàn giao cho Việt Nam 3 máy bay chiến đấu đa năng SU-30MK2. Các nguồn tin cũng cho biết thêm, Hiệp hội sản xuất máy bay Komsomolsk-on-Amur đang tiếp tục lắp ráp chiếc Su-30MK2 cuối cùng trong hợp đồng mua 12 máy bay cùng loại mà Việt Nam đã ký kết trong năm 2010.

Hợp đồng đầu tiên cung cấp cho Việt Nam 8 máy bay Su-30MK2 có tổng trị giá khoảng 400 triệu USD, hợp đồng thứ hai, cung cấp thêm 12 máy bay Su-30MK2. Theo thông tin không chính thức, giá trị hợp đồng này trị giá tới 1 tỷ USD. Cả hai hợp đồng cũng bao gồm cả việc cung cấp thiết bị, vũ khí và phụ tùng cho các máy bay. Trước đó đã có thông tin rằng, trong tương lai Việt Nam có thể mua thêm 24 chiến đấu cơ SU-30MK2 nữa để tiếp tục củng cố tiềm lực không quân của mình.

“Ngoài số phi cơ hiện đại nói trên, các trung đoàn không quân 921, 927, 923 và 930 đang đóng quân tại miền Bắc vẫn chủ yếu được trang bị các loại máy bay kiểu cũ như Mig – 21 và SU – 22M4”, tờ tạp chí này cho biết thêm.

Theo Infonet
Xem thêm »

Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990

Tác giả Nguyễn Trung là cựu Đại sứ VN tại Thái Lan, cựu thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, cựu thành viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS.

11/8/2012- Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.


Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.

Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị.

Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào.

Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt.

Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.

Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.

Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.

Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.

Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy.

Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!

Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!

Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.

-----------------
Phụ lục

Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu

Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990

Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011

“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…




Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “Việt Nam xâm lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.



…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).



…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…



…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…



…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “ vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….



…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề



…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”

…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

(1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên, Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc”(Hồi ký Trần Quang Cơ)


Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ ... Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.


(2)Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất khuất, không sợ địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong lai….

…”

Hết

Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012


Theo Viet-Studies
Xem thêm »

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Trung Quốc sắp đưa tàu sân bay vào trực chiến

10/8/12- (Dân trí) – Hải quân Trung Quốc sẽ đưa vào trực chiến tàu sân bay đầu tiên của nước này vào đúng ngày quốc khánh 1/10 tới. Ngoài ra, nước này cũng dự định tự đóng thêm 3 tàu sân bay để từng bước hiện thực hóa tham vọng trở thành một cường quốc hải quân.


Với việc đưa tàu sân bay vào sử dụng, Trung Quốc tiến gần hơn tới việc thâu tóm quyền khống chế trên Biển Đông.

Hãng thông tấn Nga ITAR-TASS cho biết chiếc tàu sân bay này được tu sửa, nâng cấp trên cơ sở một chiếc tàu cũ mua lại của Ukraina năm 1998 và được đặt tên là Thi Lang.

Tuy nhiên, dù đã được nâng cấp rất nhiều nhưng tàu Thi Lang vẫn chỉ thuộc loại "thường thường bậc trung", vì trên thực tế đây là chiếc hàng không mẫu hạm Varyag từ thời Liên Xô, sau này được Nga bán cho Ukraine và Ukraine bán lại cho Trung Quốc.

Tàu Thi Lang được trang bị chiến đấu cơ J-15 Flying Shark và đã được cho chạy thử nghiệm 9 lần.

Lần ra khơi gần đây nhất là vào ngày 30/7 với hải trình dự kiến kéo dài 25 ngày đêm.

Ngoài việc đưa vào trực chiến con tàu trên, Trung Quốc cũng dự định tự đóng thêm ít nhất 3 tàu sân bay cùng loại với tàu Đô đốc Kuznetsov của Hải quân Nga nhằm mục đích "bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển của Trung Quốc" và hướng tới mục tiêu trở thành “một cường quốc hải quân”.

Các tàu sân bay này sẽ được Trung Quốc khởi công trong năm nay và được biên chế vào Hạm đội Hải Nam quản lý Biển Đông, chia thành hai đội tàu chiến. Một đội sẽ làm nhiệm vụ tuần tra-tác chiến, đội còn lại tham gia hỗ trợ và đảm nhiệm công tác huấn luyện.

Các chuyên gia cảnh báo đội tàu sân bay của Trung Quốc sẽ trở thành mối đe dọa ở khu vực sau 10-20 năm nữa. Tuy nhiên, mức độ đe dọa thực sự nguy hiểm đến cỡ nào còn phải chờ vào "đẳng cấp" của những tàu đóng mới.

Nguồn: Dân Trí
Xem thêm »

VN sẽ huy động công dân từ 18-45 tuổi nếu có chiến tranh

10/8/12- Trong bài Cần hiểu đúng công tác “Khảo sát nhân lực phục vụ cho năm đầu chiến tranh”, Báo Đồng Nai cho biết, công tác khảo sát nguồn nhân lực phục vụ cho năm đầu chiến tranh là việc làm thường xuyên hàng năm theo Nghị định 116/NĐ/TTg ngày 6-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ về động viên quốc phòng.


Nội dung bài đăng trên Báo Đồng Nai:

Thời gian gần đây, cơ quan quân sự các địa phương trên địa bàn tỉnh đã phát “Phiếu khảo sát nhân lực phục vụ cho năm đầu chiến tranh” để nắm nguồn lực của các địa phương, trên cơ sở đó triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Để người dân hiểu rõ hơn về đợt khảo sát này, phóng viên Báo Đồng Nai đã có cuộc trao đổi với Đại tá Nguyễn Văn Nam, Ủy viên Ban TVTU, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Đại tá Nguyễn Văn Nam cho biết:

- Thực ra, công tác khảo sát nguồn nhân lực phục vụ cho năm đầu chiến tranh là việc làm thường xuyên hàng năm theo Nghị định 116/NĐ/TTg ngày 6-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ về động viên quốc phòng. Thông qua đó, các cấp chính quyền và cơ quan chức năng nắm chắc được nguồn nhân lực để sẵn sàng huy động khi có tình huống xảy ra. Nhiều năm trước đây, Đồng Nai cũng đã triển khai thực hiện công tác khảo sát này và đạt được nhiều kết quả tích cực, người dân đã hăng hái hợp tác, kê khai, giúp cho chính quyền và cơ quan quân sự nắm được nguồn thực lực hiện có của địa phương mình, trên cơ sở đó đã triển khai thực hiện tốt công tác xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy nhiên cũng từ việc làm này đã phát sinh nhiều dư luận trái chiều.

* Thực chất của vấn đề là như vậy, nhưng tại sao lại phát sinh dư luận gây nhiều ảnh hưởng nêu trên, thưa Đại tá?

- Sở dĩ xảy ra dư luận nêu trên là do quá trình triển khai công tác khảo sát, cách làm của các địa phương còn nhiều vấn đề phải chấn chỉnh. Theo quy định của tỉnh, thời điểm tiến hành khảo sát bắt đầu từ ngày 1-4 và đến ngày 20-6 phải hoàn thành để báo cáo cho UBND tỉnh. Tuy nhiên, còn một số địa phương trong tỉnh đến cuối tháng 5-2012 mới triển khai. Do thời gian gấp rút, công tác tuyên truyền, quán triệt trong nhân dân về mục đích, ý nghĩa của việc kê khai chưa được các địa phương triển khai chu đáo, trong khi việc phát phiếu kê khai nắm thông tin nguồn nhân lực đối với công dân trong độ tuổi phải khẩn trương hoàn thành nên đã tạo áp lực về thời gian, gây hiểu lầm trong nhân dân. Mặt khác, cùng thời điểm này, tình hình biển Đông trở nên “nóng” hơn cũng là yếu tố để gây ra tâm lý lo ngại trong dư luận.

* Đại tá có thể cho biết nội dung, quy mô khảo sát và người dân phải làm gì để góp phần cùng cơ quan chức năng hoàn thành tốt đợt khảo sát?

- Như tôi đã nói ở trên, đợt khảo sát nhân lực phục vụ cho năm đầu chiến tranh dựa trên tinh thần các thông tư, chỉ thị của cấp trên về khả năng động viên nguồn lực quốc dân đảm bảo nhu cầu quốc phòng năm đầu chiến tranh. Do vậy, việc khảo sát, kê khai cũng dựa trên các yêu cầu nội dung đó. Chẳng hạn, về nguồn nhân lực, phải kê khai nắm chắc các công dân trong độ tuổi từ 18-45, trong đó nam từ 18-45 tuổi; nữ từ 18-40 tuổi. Đồng thời, các nguồn lực khác trong xã hội có khả năng phục vụ cho công tác quốc phòng, như: phương tiện, trang bị vật chất, vật tư các loại; năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp; năng lực động viên y tế..., cũng được khảo sát, kê khai trong đợt này.

Với ý nghĩa đó, để góp phần triển khai thực hiện thắng lợi mục tiêu trong đợt khảo sát, đề nghị chính quyền các địa phương, ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… trong tỉnh hãy tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, công nhân, viên chức và người dân hăng hái tham gia kê khai đầy đủ, tránh để xảy ra dư luận xấu, gây hiểu lầm trong nhân dân về việc làm thường xuyên này.

Nguồn: Báo Đồng Nai
Xem thêm »

Báo Mỹ “vạch mặt” Trung Quốc về Biển Đông

10/8/12- (VnMedia) - Tờ Nhật báo Phố Wall của Mỹ hôm nay (10/8) có bài viết vạch rõ việc Trung Quốc đòi chủ quyền trên một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Biển Đông là không có giá trị pháp lý và Mỹ là cường quốc duy nhất đủ mạnh để có thể ngăn chặn Trung Quốc.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Hồi cuối tuần trước, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ đã lên tiếng chỉ trích quyết định gần đây của Bắc Kinh trong việc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” có phạm vi quản lý bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đồng thời đưa quân đến đồn trú ở đây. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng, những hành động này của Trung Quốc “đi ngược lại với nỗ lực ngoại giao tập thể của các nước trong việc giải quyết bất đồng và giảm nguy cơ làm leo thang căng thẳng”.

Phát biểu trên của quan chức Mỹ lập tức vấp phải làn sóng chỉ trích đầy tức giận của giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như báo chí nước này. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã triệu tập một nhà ngoại giao cấp cao của Mỹ đến để bày tỏ sự phản đối trong khi báo chí Trung Quốc “góp lời” bằng những ngôn từ hết sức nặng nề như bảo Mỹ “câm miệng” lại hoặc ngừng ngay các hành động “kích động” xung đột trong khu vực.

Tại sao Trung Quốc lại thể hiện sự tức giận mạnh mẽ đến như vậy. Theo tờ Nhật Báo Phố Wall, một phần nguyên nhân là do các nhóm khác nhau ở Bắc Kinh đang cần phải chứng tỏ sự cứng rắn trong các vấn đề chủ quyền trước thềm Đại hội Đảng sắp tới. Quốc hội sẽ chọn ra thế hệ lãnh đạo mới của Đảng.

Một lý do khác khiến Trung Quốc phải thể hiện thái độ quyết liệt là vì những hành động hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông gần đây đang vấp phải sự phản ứng của các nước láng giềng và làm tăng thêm quyết tâm của những nước này trong việc chống lại sự dọa dẫm, bắt nạt của Trung Quốc. Thay vì thừa nhận lỗi lầm, Bắc Kinh muốn coi Mỹ như là “bàn tay đen” đầu độc mối quan hệ của họ với các nước Đông Nam Á. Đây có thể chỉ đơn thuần là một chiến dịch tuyên truyền nhưng nguy cơ của nó là Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể sẽ gắn Mỹ là kẻ thù khu vực của họ.

Trung Quốc thiếu cơ sở pháp lý khi đòi chủ quyền ở Biển Đông

Trong Sách Trắng năm 2000, Bắc Kinh cho rằng, nguồn gốc “chủ quyền không thể tranh cãi” của họ đối với quần đảo Trường Sa là những ghi chép lịch sử từ thời phong kiến. Theo đó, Trung Quốc nhận mình là “nước đầu tiên phát hiện ra, đặt tên và thực hiện quyền chủ quyền” ở quần đảo Trường Sa”.

Lập luận trên của Trung Quốc đã bị phản bác. Trung Quốc có thể có một số bản đồ cổ nhất về vùng lãnh thổ đó nhưng những thổ dân Malay, Ấn Độ và Ả-rập đã thực hiện các cuộc giao dịch ở đây từ trước khi người Hán bắt đầu khám phá nơi này. Và các bản đồ do người Trung Quốc vẽ ra từ thời xa xưa đến suốt thế kỷ 20 cũng vẫn không coi quần đảo Trường Sa nằm trong chủ quyền của họ.

Có một điều nực cười là, trong bản đồ năm 1947, Trung Quốc đã vẽ ra đường 11 đoạn để đòi chủ quyền đối với hơn 90% Biển Đông. Sau đó, chính quyền của Chủ tịch Mao Trạch Đông lại vẽ lại thành đường 9 đoạn. Như vậy, ngay trong nội bộ Trung Quốc cũng không thống nhất về vấn đề đòi chủ quyền ở Biển Đông.

Bắc Kinh tiếp tục sử dụng bản đồ này để đòi chủ quyền ở Biển Đông với lập luận lúc thì là họ đòi chủ quyền dựa trên Công ước Quốc tế về Luật Biển mà Trung Quốc ký và thông qua năm 1996, lúc lại nói rằng họ dựa vào những quyền có từ trước khi Công ước ra đời. Dù thế nào, Bắc Kinh cũng đang cư xử như thể họ sở hữu toàn bộ Biển Đông. Nước này năm ngoái còn lên án Việt Nam khai thác ở những khu vực nằm hoàn toàn trong lãnh thổ và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Làm rõ sự mập mờ trong việc Trung Quốc đòi chủ quyền ở Biển Đông không phải chỉ là vấn đề lý lẽ. Đối với Mỹ, nó cần thiết bởi vì 1/3 giao dịch thương mại của thế giới đi qua đây và tự do hàng hải nằm trong lợi ích then chốt của Mỹ. Các nước láng giềng của Trung Quốc cũng quan tâm bởi họ đang phải đối mặt với “sự lấn chiếm chủ quyền” từ phía Bắc Kinh.

Điều đáng nói nữa là, Trung Quốc chỉ bắt đầu đòi chủ quyền trên phần lớn ở Biển Đông vào những năm 1970 khi người ta khám phá được trữ lượng dầu khí lớn ở đây. Kể từ đó, Trung Quốc bắt đầu áp dụng chính sách dọa dẫm để thể hiện chủ quyền ở Biển Đông. Năm 1974, nước này đã bất ngờ tấn công Việt Nam để đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1988, quân đội Trung Quốc lại tấn công Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.

Ai khiêu khích?

Hiện giờ, Bắc Kinh cáo buộc các nước láng giềng đang khuấy động căng thẳng ở Biển Đông. Tuy nhiên, trong tháng 6, nước này chính là nước gây ra hành động khiêu khích lớn nhất kể từ năm 1994 đến giờ. Đó là, Trung Quốc đã mời thầu trên các lô dầu khí hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Bên cạnh đó, Bắc Kinh còn sử dụng hải quân và lực lượng dân quân để làm leo thang căng thẳng trong khu vực. Trong cuộc đụng độ với Manila hồi tháng 4 và 5 ở bãi cạn Scarborough, gần 100 tàu cá Trung Quốc đã cùng lúc dồn về khu vực để gây áp lực với Philippines. Trước đó hồi năm ngoái, tàu của Trung Quốc còn ngang nhiên cắt cáp thăm dò của hai tàu Việt Nam. Và mới đây, hồi tháng 6, Bộ Quốc phòng Trung Quốc còn trắng trợn thông báo, nước này đã bắt đầu các chuyến tuần tra “sẵn sàng chiến đấu” ở những vùng lãnh hải của Việt Nam.

Trong ý nghĩ của Bắc Kinh, việc đòi chủ quyền ở những vùng xa xôi và vi phạm luật quốc tế là đặc quyền của một cường quốc lớn. Đó chắc chắn là thông điệp mà Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đưa ra trong Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội hồi tháng 7 năm ngoái. Ông này miêu tả Biển Đông là “lợi ích then chốt” của Trung Quốc và sau đó nói rằng: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ. Đó là một thực tế”.

Theo tờ Nhật báo Phố Wall, cơ hội tốt nhất để tránh một cuộc xung đột ở Biển Đông là phản ứng mạnh của Mỹ. Washington đã duy trì sự mập mờ trong vấn đề Biển Đông bằng cách tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp nhưng có lợi ích quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề Biển Đông theo con đường hòa bình.

Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thể hiện rằng, nước này không quan tâm đến việc tìm kiếm một giải pháp trên bàn đàm phán và sẽ sử dụng vũ lực nếu cần. Washington cần phải khẳng định đường 9 đoạn của Trung Quốc là trái với luật pháp quốc tế và tuyên bố rõ Mỹ sẽ chiến đấu để duy trì sự tự do giao thương ở Biển Đông.

VnMedia

Dựa theo bài The Bully of the South China Sea (The Wall Street Journal)
Xem thêm »

Tàu CSB đã chặn đuổi tàu Hải giám như thế nào ?

10/8/12- TP - Trước tình trạng tàu cá của ngư dân Trung Quốc xâm phạm trái phép chủ quyền biển Việt Nam, lực lượng Cảnh sát biển (CSB) thuộc Vùng Cảnh sát biển 2 đang tăng cường công tác tuần tra trên biển miền Trung, đẩy đuổi nhiều đợt tàu cá Trung Quốc xâm phạm chủ quyền.


Lực lượng Vùng CSB 2 là chỗ dựa vững chắc cho ngư dân. Ảnh: Nguyễn Thành.

Lật lọng và xuyên tạc

Vùng Cảnh sát biển 2 phụ trách tuần tra kiểm soát một khu vực biển dài khoảng 720km gồm bờ biển và vùng biển ngoài khơi với phạm vi từ đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) đến Cù Lao Xanh (Bình Định).

Đây là khu vực thường xảy ra nhiều giông bão và là ngư trường làm ăn của hàng ngàn ngư dân miền Trung, cũng là khu vực tàu Trung Quốc xâm phạm trái phép lãnh hải Việt Nam.

Trung tá Lê Trọng Phổ, Chủ nhiệm chính trị Vùng CSB 2, cho biết: “Tình hình Biển Đông trở nên phức tạp trước những hành động ngang ngược từ phía Trung Quốc, lực lượng CSB luôn trong tư thế sẵn sàng cơ động để thực hiện nhiệm vụ đẩy đuổi tàu Trung Quốc khi phát hiện xâm phạm lãnh hải”.

Theo Trung tá Phổ, phía Trung Quốc đang ngày càng xuyên tạc và cổ vũ ngư dân nước họ xâm phạm chủ quyền, làm phức tạp thêm vấn đề Biển Đông, cố tình biến vùng biển không tranh chấp thành vùng tranh chấp, do đó lực lượng CSB phải tăng cường tuần tra kiểm soát, bảo vệ ngư dân Việt Nam, đẩy đuổi tàu Trung Quốc.

Tình hình càng phức tạp hơn sau khi Trung Quốc hết ban hành lệnh cấm đánh bắt cá, lại thành lập cái gọi là TP Tam Sa, cố tình xuyên tạc sự thật để đánh lừa dư luận Trung Quốc và thế giới.

Điển hình là vụ việc phía Trung Quốc đưa ra hình ảnh và cho rằng “tàu Trung Quốc đuổi tàu CSB Việt Nam”. Theo Trung tá Phổ, sự thật hoàn toàn không phải như vậy.

Trước đó, tàu Công vụ của CSB phát hiện 4 tàu Trung Quốc ở khu vực tiếp giáp lãnh hải, tàu công vụ CSB tiếp cận để giám sát. Hành trình theo dõi kéo dài hơn 80 hải lý khi đến vùng biển thuộc Vùng Cảnh sát biển 3 quản lý, thấy tàu Trung Quốc chưa vi phạm, tàu công vụ CSB quay lại, lập tức, phía Trung Quốc quay hình và xuyên tạc rằng Tàu CSB “bỏ chạy” (!).

“Cảnh sát biển có đầy đủ chứng cứ chứng tỏ Trung Quốc cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật. Không hề có chuyện như phía Trung Quốc đã đưa ra” - Trung tá Phổ khẳng định.

Phóng viên được lãnh đạo Vùng CSB 2 cho xem nhiều đoạn clip mà tàu CSB ghi lại được, chứng tỏ Trung Quốc xuyên tạc sự thật một cách trắng trợn. Trong đó, có một số đoạn, tàu quân sự Trung Quốc bỏ chạy khi thấy tàu CSB.

Từ đầu năm đến nay, Vùng CSB 2 đã đẩy đuổi thành công nhiều vụ tàu cá Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển. Đầu tháng 8, từ khi phía Trung Quốc bỏ lệnh cấm biển, các tàu cá Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam, thậm chí cách đảo Lý Sơn chỉ có 30-45 hải lý.

Các tàu cá Trung Quốc xâm phạm thường đi thành nhóm 18-30 chiếc, đánh bắt theo hình thức hủy diệt, và có xu hướng liều lĩnh, ngoan cố hơn trước.

“Từ đầu năm đến nay, Vùng CSB 2 mỗi tháng xua đuổi vài ba chục lượt tàu Trung Quốc xâm phạm. Để ngăn chặn tàu cá Trung Quốc xâm nhập, Vùng đã tăng cường lực lượng, huy động toàn bộ tàu CSB luân phiên tuần tra kiểm soát bảo vệ vùng biển. Tàu cá Trung Quốc thường tháo chạy khi thấy lực lượng CSB xuất hiện” - lãnh đạo Vùng CSB 2 cho biết.

Đưa máy bay tuần thám vào bảo vệ chủ quyền biển


Máy bay tuần thám biển C212-400 Patrullero Việt Nam mua từ Công ty Airbus Military của Tây Ban Nha.

Theo trung tá Phổ, lực lượng CSB có đủ sức bảo vệ, ngăn cản tàu cá Trung Quốc xâm nhập. Đến nay, đơn vị chưa huy động hết lực lượng ra biển thực thi công tác, dù phương tiện thiết bị ngày càng hiện đại.

Tàu CSB được trang bị hệ thống ra đa phát hiện mục tiêu từ rất xa với tầm hiệu quả trên 100km, cùng lúc phát hiện và theo dõi 10 mục tiêu trên biển. Tàu CSB luôn sẵn sàng nhiên liệu, lương thực đủ hoạt động trên biển 45 ngày. Các tàu sẵn sàng rời bến ngay khi có lệnh.

“Sắp tới lực lượng CSB sẽ có máy bay tuần thám tham gia tuần tra trên biển” - Trung tá Phổ cho biết. CSB cũng sẽ xây dựng trạm CSB trên các đảo trọng yếu để phối hợp máy bay tuần thám xử lý tàu nước ngoài xâm nhập. Các trạm và máy bay tuần thám cũng sẽ góp phần hỗ trợ, khẩn cứu ngư dân và tàu gặp nạn trên biển.

Khi phát hiện tàu cá Trung Quốc xâm phạm, ngư dân liên hệ với CSB qua tần số liên lạc: Đài canh số 1: Vùng CSB 2 – Ba Vì 02 tần số 7.325Khz; Đài canh số 2: Vùng CSB 2 – Ba Vì 02 có tần số ban ngày là 9.339Khz và tần số ban đêm 6.973Khz. Trong đó, mùa hè sóng ngày hoạt động từ 6h – 20 h và sóng đêm là 20h – 6 h sáng hôm sau. Vào mùa đông, sóng ngày hoạt động từ 8h – 18h và sóng đêm từ 18h – 8h.

Theo Tiền Phong
Xem thêm »

Mỗi tháng đuổi hàng chục tàu Trung Quốc thâm nhập

10/8/12- Trung tá Lê Trọng Phổ, chủ nhiệm chính trị Cảnh sát biển vùng 2 cho biết như vậy trong bối cảnh tàu cá Trung Quốc đang tràn xuống Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa.

Mục tiêu nhằm góp phần bảo vệ ngư dân và ngư trường, không để ngư dân mất ngư trường truyền thống.

Tăng cường tuần tra trên biển để bảo vệ ngư dân’

Thời gian gần đây, tàu cá Trung Quốc tràn vào Biển Đông ngày càng nhiều, thậm chí còn tiến gần đến các đảo thuộc các tỉnh miền Trung chỉ vài chục hải lý. Trung tá Lê Trọng Phổ khẳng định: “Việc tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng biển miền Trung là có thật, nhất là từ sau khi Trung Quốc bỏ lệnh cấm biển do họ tự đặt ra vào đầu tháng 8 này. Các tàu cá Trung Quốc đã đi sâu vào vùng biển gần đảo Lý Sơn từ 30 – 45 hải lý, với lượng tàu mỗi đợt xâm nhập từ 18 – 30 chiếc”.


Tàu cá Trung Quốc xâm nhập bị tàu công vụ Việt Nam xua đuổi (ảnh do cảnh sát biển vùng 2 cung cấp).

Để ngăn chặn tàu cá Trung Quốc xâm nhập trái phép, vi phạm chủ quyền trên biển Việt Nam, lực lượng Cảnh sát biển vùng 2 (đóng tại Quảng Nam) liên tục tuần tra để xử lý, xua đuổi những tàu cá này. Riêng từ đầu năm đến nay, theo trung tá Phổ, mỗi tháng đơn vị xua đuổi vài ba chục lượt tàu Trung Quốc xâm phạm. “Tàu cảnh sát biển luôn nạp đầy đủ nhiên liệu, lương thực và nhu yếu phẩm, đảm bảo có thể hoạt động 45 ngày trên biển. Khi nhận lệnh, các tàu cảnh sát biển tức tốc lên đường”, trung tá Phổ nói. Hiện cảnh sát biển còn được trang bị rađa có tầm quét cánh quạt 100km, trong đó khoảng 70km rađa nhìn rõ tàu xâm phạm vùng biển.

Trung tá Phổ cho chúng tôi xem nhiều đoạn clip mà đơn vị khi thực thi nhiệm vụ đã ghi lại. Đặc biệt, trong đó clip tàu cảnh sát biển vùng 2 giám sát tàu Trung Quốc hoạt động trên biển mà Trung Quốc từng bù lu bù loa cho rằng, đã ngăn cản và đuổi tàu cảnh sát biển Việt Nam!

“Sắp tới sẽ có máy bay tuần thám tham gia tuần tra trên biển. Hiện nay máy bay này đã có và sẽ đi vào hoạt động trong một ngày gần đây”, trung tá Phổ cho biết. Cùng với máy bay tuần thám, cảnh sát biển sẽ có các trạm trên các đảo trọng yếu để phối hợp với máy bay tuần thám xử lý các vụ tàu nước ngoài xâm nhập. Đồng thời nắm tình hình ngư dân, tình hình trên biển để bảo vệ vùng biển tốt hơn. Bên cạnh đó, trạm và máy bay tuần thám còn hỗ trợ, khẩn cứu ngư dân và các tàu trên biển gặp nạn.

Nhiều ngư dân phản ánh, khi gặp tàu cá Trung Quốc hoạt động đánh bắt trái phép trên vùng biển Việt Nam, nhưng không liên lạc được với lực lượng chức năng. Trả lời vấn đề này, trung tá Lê Trọng Phổ cho biết: Đơn vị đã phát cho ngư dân hơn mười ngàn tờ rơi, trên đó có ghi rõ tần số liên lạc ngày và đêm.

Tàu Trung Quốc đánh bắt kiểu tận diệt

Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều ngư dân Quảng Ngãi, hiện nay tàu cá Trung Quốc hoành hành trên vùng biển của ta, đánh bắt hải sản theo kiểu “tận diệt”. Thông thường các tàu này hành nghề theo cách: hai tàu một cặp và “cào” tận đáy biển, bắt tất tần tật tất cả hải sản lớn nhỏ.

Một sĩ quan cảnh sát biển vùng 2 cho biết, tàu cá Trung Quốc đánh bắt thuộc vùng biển Việt Nam ngày càng ngoan cố hơn. “Nếu trước đây, khi gặp tàu công vụ Việt Nam, họ chạy đi ngay. Còn nay, khi bị đuổi ra khỏi vùng biển Việt Nam, tàu khác lại xuất hiện khai thác trái phép. Hầu hết tàu cá của Trung Quốc đều trang bị máy dò cá, rađa rất hiện đại”.

Theo ông Phùng Đình Toàn, thường trực hội Nghề cá tỉnh Quảng Ngãi, chức năng xử lý các tàu cá này thuộc lực lượng kiểm ngư Việt Nam.

Theo Báo Đất Việt
Xem thêm »

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

"Trận Không-Biển" có thể châm ngòi chiến tranh hạt nhân, chuyên gia

09/8/12- Chính phủ Mỹ có thể muốn phủ nhận nó, nhưng cựu giám đốc tình báo của Tổng thống Barack Obama đã khẳng định Trung Quốc là một mục tiêu chính của một kế hoạch chiến tranh lớn của Hoa Kỳ.


Một mũi tấn công Trung Quốc trong kế hoạch "Trận Không-Biển", Mỹ dùng tàu ngầm, máy bay tàng hình, tên lửa tầm xa chính xác để tiêu diệt radar giám sát tầm xa và tên lửa chính xác của đối phương, theo sau bởi một cuộc tấn công cấp tập của không quân và hải quân Hoa Kỳ. Ảnh minh họa

Kế hoạch của Mỹ, được biết đến ở Washington là Trận Không-Biển, là chiến lược không hoàn thiện, chuyên gia quốc phòng quan trọng nhất khu vực của Úc, Hugh White, cho biết, cuộc chiến Mỹ-Trung có nguy cơ leo thang lên mức độ một cuộc tấn công hạt nhân. Kế hoạch Trận Không-Biển đã làm quân đội Trung Quốc nổi đóa, và được xác nhận là Bắc Kinh có những biểu hiện không hài lòng. Đô đốc Dennis Blair, chuyên gia về và là giám đốc tình báo quốc gia của ông Obama cho đến năm 2010 đã khẳng định như vậy. Trước đó, ông là người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (The U.S.Pacific Command).


Kế hoạch "Trận Không-Biển"
Phóng to

Ông đã trả lời các câu hỏi đặt ra bởi các hãng tin quốc phòng về "Trận Không-Biển", một chiến lược của Lầu Năm Góc dùng tàu ngầm, máy bay tàng hình, tên lửa tầm xa chính xác để tiêu diệt radar giám sát tầm xa và tên lửa chính xác của đối phương, theo sau bởi một cuộc tấn công cấp tập của không quân và hải quân Hoa Kỳ.

Khi được hỏi về Trận Không-Biển và liệu nó có liên quan gì đến Trung Quốc, Đô đốc Blair nói: "Tôi không ở trong Lầu Năm Góc nữa, vì vậy tôi không thể nói một cách chi tiết, nhưng không phải mất công phân tích thông tin để bạn biết rằng các nước như Iran và Trung Quốc ... đã phát triển công nghệ tàu ngầm và tên lửa có thể tấn công Hải/ Không quân Mỹ từ xa."

Kết quả là, ông nói, đó là công việc của các chỉ huy quân sự của Mỹ để "tìm ra cách mà chúng tôi có thể gửi lực lượng của chúng tôi để tiến hành các hoạt động quân sự bất chấp mối đe dọa".

Có thể thấy rằng Iran đặt ra mối đe dọa rất ít đối với một chiến dịch quy mô của Quân đội Mỹ, và Trận Không-Biển không chính thức được thừa nhận tại Washington như là kế hoạch trung tâm của Mỹ để đối phó với gả khổng lồ Trung Quốc hung hăng được trang bị vũ khí hạng nặng.

"Tôi không nghi ngờ một chút nào ... mục tiêu thực sự của Trận Không-Biển là Trung Quốc," Giáo sư White, tác giả của một cuốn sách "Mối quan hệ Mỹ-Trung, Sự lựa chọn của Trung Quốc" vừa xuất bản.

Giáo sư White là một nhà phê bình "Chiến lược Không-Biển" rất mạnh mẽ, ông nói rằng có ba vấn đề cơ bản. "Thứ nhất, tôi không nghĩ rằng nó sẽ được áp dụng; thứ hai, ngay cả nếu nó không được thực hiện nó sẽ không đạt được mục tiêu chiến lược, và thứ ba, nó chạy một cảm giác rất mạnh mẽ là kế hoạch này sẽ làm leo thang một cuộc chiến tranh hạt nhân".

Giáo sư White cho biết kế hoạch chiến tranh này cũng là một khái niệm ở thế kỷ 20 đang được "đóng gói lại" cho một kẻ thù ở thế kỷ 21.

"Hoa Kỳ đã luôn luôn thực hiện kiểm soát ở Thái Bình Dương, nhưng những gì đang thay đổi? Kẻ thù đã thay đổi. Và họ có một chiếc thuyền, như họ nói, "Giáo sư White cho biết.

Đô đốc Blair cũng tin rằng đó là một chiến lược cũ đã được "đóng gói lại".

"Khái niệm này là không có gì mới, nó là mốt điển hình của người Mỹ, chúng ta thường đổ rượu cũ vào chai mới với nhãn hiệu ưa thích mới. Tuy nhiên, kế hoạch hiệp đồng tác chiến hải quân và không quân để tạo niềm tin với các đồng minh - những nước nằm trong trong phạm vi của tên lửa Trung Quốc - của Mỹ là không có gì mới, và hầu hết người Mỹ hy vọng vào công việc của họ.

Theo FarmOnline.com
Xem thêm »

Để Trung Quốc hết 'bắt nạt láng giềng'

09/8/12- Việt Nam cũng nên sử dụng các mối quan hệ đối ngoại đa dạng của mình để xây dựng một liên minh những người ủng hộ mình trong nhóm các cường quốc, GS Carl Thayer khuyến nghị.


Nhà báo Phương Loan: Sau những căng thẳng ở bãi cạn Scarborough, các nhà bình luận ở Philippines đã buộc tội Trung Quốc sử dụng lợi thế nước lớn của mình để bắt nạt láng giềng. Theo ông, liệu sự hiện diện của Mỹ có là cần thiết để cần bằng quyền lực ở khu vực? Hiệp định phòng thủ chung Mỹ - Philippines sẽ quy định sự tham gia của Mỹ như thế nào đối với tranh chấp Biển Đông?


GS Carl Thayer: Chiêu thức bắt nạt của Trung Quốc là sử dụng các tàu dân sự trực thuộc cơ quan thực thi luật thủy sản và giám sát hàng hải Trung Quốc. Cách thức đáp trả thích hợp là sử dụng cảnh sát bờ biển của Philippines.


Mỹ là một cường quốc hàng hải, và lợi ích của Mỹ gắn với việc không quốc gia nào, kể cả Trung Quốc, chi phối các tuyến đường biển ở Biển Đông. Rõ ràng là hải quân Mỹ sẽ tăng cường sự hiện diện của mình và ngăn chặn Trung Quốc.


Như là một kết quả của các hành động của Trung Quốc, Hiệp định Phòng chủ chung Mỹ - Philippines đang được xem xét lại  theo đề xuất của Tổng thống Aquino. Sự ủng hộ của Mỹ là cần thiết để Philippines xây dựng năng lực cho hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và quyền tài phán ở vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Hiệp định này cũng đóng vai trò như là một sự ngăn chặn việc Trung Quốc sử dụng quân sự.


Ý chí chính trị


Nhà báo Phương Loan: Sau sự cố Phnompenh vừa qua, người ta thấy một ASEAN đang bị chia rẽ. Vậy ASEAN sẽ có ý nghĩa và vai trò gì đối với các nước như Việt Nam và Philipine trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông?


GS Carl Thayer: Có ba diễn tiến riêng rẽ tại hội nghị ASEAN tháng 7 này. Hai diễn tiến tích cực đã bị phủ bong bởi thất bại của các ngoại trưởng ASEAN trong việc đạt được một thỏa thuận về ngôn từ của thông cáo chung. Đó có thể là một cuộc tranh luận nóng giữa các ngoại trưởng nhưng không phải là cuộc tranh cãi kéo dài.



Hai diễn tiến khác là: trước thời điểm sự cố về thông cáo chung, các ngoại trưởng ASEAN đã nhất trí thông qua các nhân tố cơ bản của COC và ngoại trưởng ASEAN đã thắng lợi trong việc đưa tất cả các ngoại trưởng ASEAN đạt thỏa thuận về 6 nguyên tắc của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Đối thoại với Trung Quốc có thể bắt đầu vào tháng 9 với mục tiêu thông qua COC vào tháng 11.


Nhà báo Phương Loan: Cuối cùng, ASEAN cũng đã đưa ra được các thành tố cơ bản của COC. Đáng tiếc thay, không có điểm nào về tính ràng buộc pháp lý của COC như trông đợi trước đó. Trong điều kiện đó, COC giúp gì trong việc giảm căng thẳng? và trong giải quyết xung đột?


GS Carl Thayer: Bản dự thảo COC vẫn chưa được Trung Quốc đồng ý. Nhưng bản dự thảo đòi hỏi các bên kí kết tìm kiếm giải pháp cho xung đột trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC) một khi hai bên sẵn sàng chấp nhận. Nếu không, các bên trong tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế, bao gồm UNCLOS.


Trung Quốc luôn từ chối cả hai lựa chọn này: TAC và luật quốc tế. Nhưng một khi COC được thống nhất, nó sẽ giúp ngăn Trung Quốc nếu nước này sẵn lòng tuân thủ các nguyên tắc. Một khi Trung Quốc phá vỡ, giai đoạn ngoại giao sẽ chuyển sang chính sách thực dụng. Vấn đề là làm sao đạt được một thỏa thuận về cách hành xử của các bên cho tới khi tranh chấp chủ quyền được giải quyết.


Nhà báo Phương Loan: Còn nhớ tháng 7 năm 2011, Trung Quốc và ASEAN đạt được thỏa thuận về các hướng dẫn thực hiện DOC. Bản hướng dẫn này nhằm giảm căng thẳng và ngăn chặn việc leo thang tiếp theo ở khu vực. Tình hình trên Biển Đông hiện nay cho thấy văn bản này chẳng có mấy hiệu quả. Với bản dự thảo COC sắp tới, theo ông, có thể giúp đảm bảo nguyên trạng trên Biển Đông?


GS Carl Thayer: Trung Quốc và ASEAN đã thành lập nhóm làm việc để đề xuất các dự án trong các lĩnh vực hợp tác đã được nêu trong DOC. Trung Quốc hào phóng đề xuất bảo trợ cho các hoạt động hợp tác. Tuy nhiên đến nay chưa có hành động nào được thể hiện. Một khi việc hợp tác chung bắt đầu, chúng ta có thể hi vọng rằng sẽ đóng góp vào xây dựng lòng tin lẫn nhau. Vẫn còn quá sớm để đưa ra nhận xét.


ASEAN đã đưa ra tuyên bố về các nhân tố cơ bản của COC. Hiện nay các thành viên ASEAN và Trung Quốc phải đạt được thỏa thuận về văn bản cuối cùng. COC chỉ đi vào thực tế một khi các nước liên quan có đủ ý chí chính trị. Yếu tố quan trọng của COC là buộc các quốc gia không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Nhưng bản dự thảo COC thực sự không đưa ra bất kì công cụ nào kiểm tra việc một quốc gia có sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực hay không.


Tăng năng lực tự vệ


Nhà báo Phương Loan: Trước tình hình và những bước leo thang quả quyết như vậy của Trung Quốc, cũng như sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN, Việt Nam còn những lựa chọn giải pháp nào và Việt Nam cần phải làm gì?


GS Carl Thayer: Trước hết, Việt Nam nên tiếp tục tăng cường khả năng tự vệ để bảo vệ chủ quyền quốc gia và duy trì sự thống nhất trong nước. Việt Nam nên tiếp tục can dự với Trung Quốc - đấu tranh và hợp tác - nhằm đảm bảo rằng không bên nào sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ song phương.


ASEAN cần tiếp tục vận động các nước thành viên nhằm đạt được một chỗ đứng thống nhất của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Việt Nam cũng nên sử dụng các mối quan hệ đối ngoại đa dạng của mình để xây dựng một liên minh những người ủng hộ mình trong nhóm các cường quốc. Chính sách ngoại giao của Việt Nam phải luôn nhằm mục tiêu thuyết phục Trung Quốc rằng hợp tác sẽ mang lại kết quả tốt đẹp hơn là đối đầu.


Bạn Trịnh Minh Châu, cựu sinh viên ĐH New South Wales, Úc: Tuy không nghiên cứu về lĩnh vực quốc phòng và chính trị nhưng từ hơn chục năm nay khi còn học tại Úc cũng như khi trở lại Việt Nam, tôi đọc nhiều và rất quan tâm các bài viết của GS về vấn đề chính trị khu vực  Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, tôi cho rằng GS có cái nhìn, đánh giá rất khách quan song cũng rất sâu sắc, cụ thể. Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm trong quá khứ đã có thể tồn tại bên cạnh một Trung Quốc khổng lồ, nhưng với những gì đang diễn ra tại Biển Đông quả lại là một bài toán gai góc.


Nhân dân Việt Nam, quân đội và hải quân nên làm gì để bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình trong khi vẫn phải phát triển được quan hệ tốt với cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga?


GS Carl Thayer: Việt Nam nên trước tiên dựa vào các cơ quan dân sự để bảo vệ chủ quyền của mình. Điều này đồng nghĩa với việc phát triển lực lượng cảnh sát biển, tăng cường năng lực cho họ.


Việc sử dụng các tàu quân sự, như đã thấy trong trường hợp Philippines ở bãi cạn Scarborough có thể phản tác dụng. Việt nam cần xây dựng khả năng tự vệ bằng cách hiện đại hóa hải quân và không quân, để các lực lượng này có thể phối hợp hoạt động.


Việt Nam nên phát triển chiến lược chống tiếp cận như Trung Quốc đã triển khai với Mỹ.


Việt Nam nên sử dụng mạng lưới quan hệ dày đặc giữa hai đảng, hai chính phủ và hai quân đội với Trung Quốc khoanh vùng tranh chấp Biển Đông khỏi quan hệ kinh tế rộng lớn hơn.


Việt Nam đang nâng quan hệ với Nga lên mức quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam nên tiếp tục nhập khẩu công nghệ quân sự của Nga và thông thạo hệ thống vũ khí của nước này. Và Việt Nam cũng nên khuyến khích Nga đầu tư nhiều hơn vào khai thác đầu, khí và ngành hạt nhân.


Vấn đề nhân quyền ngăn quan hệ Việt - Mỹ đạt được mức đối tác chiến lược. Nhưng cả hai bbên chia sẻ một tầm nhìn chiến lược và việc duy trì một mối quan hệ tốt không phải là điều khó khăn.


Bạn đọc Long Lê: Theo cá nhân tôi, Trung Quốc ngày một quyết đoán hơn trong việc xử lý tranh chấp với các nước láng giềng ở Biển Đông và sẽ không sẵn sàng tuyên bố lại về yêu sách chủ quyền của họ đối với hầu hết Biển Đông. Cũng rất rõ ràng là Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố quan điểm chính thức là không liên minh với bất kì nước nào chống lại nước thứ ba. Tuy nhiên, Việt Nam là nước nhỏ, và trong so sánh về quân sự với Trung Quốc, là nước yếu. Quan điểm của ông với tình thế này của Việt Nam như thế nào?


GS Carl Thayer: Việt Nam cần phát triển quan hệ song phương tốt đẹp với riêng rẽ từng nước Trung Quốc và Mỹ tập trung vào những lĩnh vực mà lợi ích của hai bên chồng lấn. Việt Nam cần duy trì sự thống nhất bên trong và phát triển năng lực tự vệ. Đồng thời, Việt Nam cần khuyến khích sự thống nhất và tính cố kết trong ASEAN. Cuối cùng, Việt Nam cần phát triển quan hệ với tất cả các cường quốc. Nói cách khác, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, đấu tranh và hợp tác trên bình diện song phương.


Tăng hợp tác nhưng không liên minh với Mỹ


Nhà báo Phương Loan: Liên quan đến vai trò của Mỹ ở Biển Đông, một số nhà phân tích cho rằng Mỹ đang ở tình trạng tiến thoái lưỡng nan. GS nghĩ thế nào về nhận định này và khả năng hành động cũng như giới hạn của Mỹ là gì?


GS Carl Thayer: Tình thế lưỡng nan của Mỹ là để quyết định họ sẽ hỗ trợ Philippines tăng cường năng lực đến mức nào để không bị kẹt trong những hành động thiếu thận trọng của Philippines. Một tranh chấp về chủ quyền - rằng ai sở hữu các đảo, đá - chỉ có thể giải quyết bởi những bên trực tiếp liên quan đến tranh chấp. Mỹ không đứng về bên nào trong vấn đề chủ quyền. Nhưng chính sách của Mỹ là ngăn bất kì nước nào sử dụng quân sự hoặc đe dọa sử dụng quân sự nhằm giải quyết tranh chấp chủ quyền. Mỹ cũng có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do hàng hải và hàng không đối với các tàu quân sự và thương mại của họ.


Nhà báo Phương Loan: Ý nghĩa của tranh chấp Biển Đông trong chính sách của Mỹ và lợi ích của ước này ở khu vực?


GS Carl Thayer: Mỹ là một quốc gia biển và có nhu cầu qua lại trên Biển Đông đối với các tàu thuyền quân sự khi di chuyển từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Trung Quốc đang thách thức sự thống lĩnh trên biển của Mỹ và muốn điều khiển vị trí ấy từ cái gọi là chuỗi đảo đầu tiên ngoài bờ biển Trung Quốc. Mỹ muốn ngăn Trung Quốc thách thức sự hiện diện cả nước này. Tranh chấp Biển Đông đe dọa sự ổn định của các tuyến đường biển khi nó thu hút cả Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc đã xây dựng căn cứ hải quân lớn ở đảo Hải Nam và chiến lược tái cân bằng của Mỹ được thiết kế nhằm đảm bảo sự qua lại quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á nhằm sử dụng sức mạnh hải quân đối chọi với Trung Quốc.


Nhà báo Phương Loan: Ông nghĩ sự gia tăng hiện diện của Mỹ tại Biển Đông sẽ giúp duy trì sự ổn định hay sẽ làm phá vỡ sự ổn định của các mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực?


GS Carl Thayer: Bất chấp tất cả những bài phát biểu về tái cân bằng, không có gì để cho thấy một sự gia tăng đáng kể sự hiện diện của hải quân Mỹ. Nhưng bản chất và vị trí hiện diện của hải quân Mỹ sẽ thay đổi. Yếu tố gây bất ổn lâu dài ở Biển Đông là việc quân đội Trung Quốc thách thức vị trí siêu cường hải quân của Mỹ và phản ứng của Mỹ nhằm đảm bảo duy trì vị thế thống lĩnh của nước này. Điều này diễn ra trong bối cảnh sự trỗi dậy của Trung Quốc đồng nghĩa với suy yếu tương đối của sức mạnh Mỹ. Một số quốc gia trong khu vực lo ngại về nguồn lực của Mỹ để duy trì vị thế vượt trội của họ. Mỹ đang cố chứng tỏ rằng nước này sẽ duy trì lợi ích ở khu vực.


Bạn đọc Long Lê: Trong điều kiện Trung Quốc hành xử ngày càng gây hấn và trong tương quan sức mạnh bất đối xứng giữa Việt Nam và Trung Quốc, theo GS, liệu Việt Nam có nên tiến thêm một bước bằng cách liên minh với Mỹ để có sự hỗ trợ từ bên ngoài trong việc đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông?


GS Carl Thayer: Việt Nam không nên liên minh với Mỹ. Việt Nam nên phát triển quan hệ với Mỹ vì lợi ích quốc gia của Việt Nam. Mỹ cũng có lợi ích quốc gia của riêng họ trong việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông. Việt Nam có thể tính đến Mỹ trong hành xử vì lợi ích của chính họ.


Nhà báo Phương Loan: Vai trò của các cường quốc khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia trong tranh chấp Biển Đông?


GS Carl Thayer: Cả ba nước này có một chính sách giống như chính sách của Mĩ.  Không nước nào đứng về bên nào trong các yêu sách chủ quyền. Cả ba đều là các quốc gia biển, hai trong số đó là đồng minh của Mỹ. Cả ba đều chia sẻ lợi ích trong việc ngăn Trung Quốc thống trị Biển Đông cũng như việc Trung Quốc gây cản trở cho các hoạt động của tàu quân sự và dân sự của họ theo các quy định của luật quốc tế, bao gồm Công ước của Liên hợp quốc tế Luật biển UNCLOS.


http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/83833/de-trung-quoc-het--bat-nat-lang-gieng-.html
Xem thêm »