Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

Biển Đông có gì để nhiều nước tranh giành ?

"Biển Đông chứa tiềm năng lớn về dầu khí và nhiều loại kim loại quý hiếm. Đây cũng được đánh giá là một trong năm khu vực có trữ lượng băng cháy cao", GS. TS Trần Nghi, khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội cho biết. Một ước lượng của Trung Quốc cho biết Biển Đông có lượng dự trữ dầu khoảng 213 tỉ thùng. Nhưng theo cơ quan E.I.A của Hoa Kỳ là 28 tỉ thùng. Cũng theo một con số của người Hoa đưa ra thì riêng vùng Hoàng Sa Trường Sa có lượng dự trữ 105 tỉ thùng.

Trung Quốc đang đi tìm nguồn dầu hỏa ở nhiều nơi, trong đó có việc lấn biển của Việt Nam và Philippines vì giá xăng dầu đã lên quá cao và nước này ngày càng lệ thuộc vào lượng dầu nhập cảng nhiều hơn để tăng tốc phát triển kinh tế. Theo số liệu của U.S. Energy Information Administration (www.eia.doe.gov), tức Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ, từ sau năm 1993 mức tiêu thụ dầu hoả của Trung Quốc đã lên cao hơn mức sản xuất và từ đó đến nay chênh lệch này ngày một tăng. Năm 2006 Trung Quốc sản xuất trung bình 3 triệu 800 nghìn thùng dầu mỗi ngày, trong khi nhu cầu tiêu thụ lên đến 7 triệu 400 nghìn thùng, gần gấp đôi mức sản xuất. Hiện nay mức tăng tiêu thụ dầu của Trung Quốc chiếm hơn một phần ba tổng số gia tăng của thế giới.

Giàn khoan dầu khủng bố 981 của TQ đã được đem ra biển Đông, gần Trường Sa để khoan dầu vào cuối tháng 6-2011

Trong những năm gần đây việc khai thác dầu trong Biển Đông, đặc biệt là những dự án của Việt Nam thường bị Trung Quốc làm khó dễ bằng cách cảnh cáo những công ti dầu khí không được hợp tác khai thác với Việt Nam nếu không muốn mất thị trường ở Trung Quốc. British Petroleum và ConocoPhillips đã phải ngưng tìm kiếm và khoan giếng ngoài khơi bờ biển Việt Nam là những dự án trị giá đến 2 tỉ Mỹ-kim.

Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam đến 2020 do Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện, dự thảo tháng 11/2004 có nói: “Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất.

Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối”.

Tuy nhiên, GS.TS Trần Nghi băn khoăn: “Cho tới thời điểm này (2011), chúng ta chưa đánh giá hết được tiềm năng trữ lượng dầu khí ở Biển Đông. Với bể Cửu Long, hiện đang khai thác, cũng chưa ai dám nói đã đánh giá hết bể này. Chưa kể tới các bể trầm tích khác như bể Phú Khánh, bể Trường Sa, bể Tư Chính – Vũng Mây, bể Mã Lay - Thổ Chu, bể Hoàng Sa dự báo có tiềm năng như bể Trường Sa….”.

Khí đốt tự nhiên

Ước tính các nguồn tài nguyên khí đốt tự nhiên của Biển Đông rất khác nhau. Một báo cáo của Trung Quốc ước tính rằng có 225 tỷ thùng dầu tương đương với hydrocarbon ở quần đảo Trường Sa. Tổng nguồn khí sẽ được gần 900 TCF (900 nghìn tỷ feet khối). Nếu quy tắc ngón tay cái cho các khu vực biên giới đã được áp dụng cho các cấp tài nguyên, dự toán Trung Quốc sẽ sản xuất khí đốt tiềm năng ở các quần đảo Trường Sa là gần 1,8 TCF hàng năm.

Một báo cáo khác của Trung Quốc ước tính rằng toàn bộ biển Đông có chứa hơn 2.000 TCF các nguồn tài nguyên khí đốt tự nhiên.

Đang thăm dò băng cháy, chưa đặt kế hoạch tìm kim loại quý

Băng cháy là một hợp chất rắn, được hình thành từ sự kết hợp giữa chất khí methane, ethane, propane… và nước ở điều kiện áp suất cao (trên 30 atm) và nhiệt độ thấp (dưới 0 độ C). Những môi trường như thế chỉ tồn tại dưới đáy đại dương và dưới các vùng đất đóng băng tại Bắc Cực. Băng cháy chứa metan có dạng tinh thể mắt lưới.

Các nhà khoa học tính toán rằng, nếu khai thác hết khí metan trong các khối băng cháy, loài người sẽ có được nguồn năng lượng sạch vô cùng lớn trong tương lai.

Báo Đà Nẵng ngày 6/6/2011 dẫn thông tin, các chuyên gia Nga đánh giá, khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên băng cháy (methane hydrate), loại năng lượng sạch trong tương lai có thể còn quý hơn dầu mỏ.

Công trình “Nghiên cứu câu trúc địa chất vùng biển nước sâu (trên 200m) Nam Vệt Nam làm cơ sở khoa học để tìm kiếm tài nguyên khoáng sản liên quan” năm 2006 cũng dự đoán, vùng được đánh giá triển vọng nhất bao gồm các khu vực địa lũy Tri Tôn – Tây quần đảo Hoàng Sa, Bắc và Đông bể Nam Côn Sơn và tây bắc vùng Tư Chính. Vùng được đánh giá triển vọng tương đối là phần đông bể Phú Khánh, Đông quần đảo Hoàng Sa và nhóm bể Trường Sa, phần Tây Nam và Nam bể Tư Chính – Vũng Mây.

Tại Việt Nam, tháng 6/2010, Thủ tướng đã phê duyệt “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Mục tiêu của chương trình là nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam để xác lập các luận cứ, định hướng cho công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng và lựa chọn công nghệ khai thác.

Về các loại khoáng sản kim loại quý khác, GS.TS Trần Nghi cho biết, vùng Biển Đông Việt Nam có đồng, chì, kẽm, mangan, vàng…, phân bố ở đáy biển hoặc nằm trong lòng đất dưới đáy biển. Hiện Việt Nam chưa đặt vấn đề thăm dò, tìm kiếm một cách chi tiết.

GS.TS Lê Đức Tố, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và công nghệ biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội” cũng xác nhận, đã thu được những mẫu kim loại quý như vàng, mangan từ Biển Đông nhưng tại thời điểm này chưa đặt vấn đề thăm dò, khai thác.

Giải thích nguyên nhân Việt Nam chưa đánh giá được hết tiềm năng khoáng sản ở Biển Đông, hai GS trên đều thống nhất, trong điều kiện hiện nay, sự đầu tư cho việc này chưa nhiều. Công tác thăm dò, đánh giá, tìm kiếm khoáng sản cũng vấp phải những vấn đề phức tạp khác.

“Nhưng mục tiêu của chúng ta là sẽ phải khảo sát, đánh giá được tương đối chính xác tài nguyên của Biển Đông” – GS. TS Trần Nghi khẳng định.

Tuyến hàng hải quan trọng bật nhất thới giới và nguồn đa dạng sinh học, thủy sản dồi dào

Biển Đông là tuyến giao thương hàng hải nhộn nhịp bật nhất của thế giới. Biển Đông cung cấp lộ trình vận chuyển quan trọng cho thương mại hàng hải toàn cầu, và với các nền kinh tế Đông Á vốn phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ Trung Đông.
Đây còn là vùng đa dạng sinh học cực lớn, nguồn thủy sản dồi dào, và được tin là khu vực rất giàu tài nguyên dầu khí. Một số quốc gia trong khu vực có liên quan tới các tuyên bố chủ quyền chồng lấn về vùng biển, một số nước trong đó có cách hành xử rất quả quyết để bảo vệ các lợi ích của họ... Và, tranh chấp rất có thể dẫn tới xung đột. Nếu không được giải quyết và xử lý một cách thân thiện, các tuyên bố chủ quyền có thể biến vùng biển này trở thành điểm nóng, đe dọa thịnh vượng và ổn định khu vực.
Với ước tính 80% thương mại thế giới được thực hiện bởi cách vận chuyển qua đường biển và khu vực Biển Đông chiếm phần lớn trong thương mại toàn cầu, viễn cảnh dài hạn cho thương mại hàng hải và lĩnh vực vận chuyển của khu vực luôn luôn là đáng hứa hẹn.
Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là sợi dây liên kết và phụ thuộc giữa các quốc gia. Tuy nhiên, điều đó cũng không hoàn toàn ngăn cản được những tranh chấp, xung đột tại Biển Đông xảy ra.

Vùng biển địa chiến lược

Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.

Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.

Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.

Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới.

Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la). Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.

Nguồn: Globalsecurity.org, Nghiencuubiendong.vn, VNExpress.net, Giaoduc.net.vn, Doanh nhân Việt Nam toàn cầu.
In bài đăng Share

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có biết ? Bạn được nhận xét tự do trên bất kỳ bài đăng nào của Socmai. Thêm lựa chọn Tên/URL để tạo link hoặc sử dụng cập thẻ <a></a>.