Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Biên giới biển

(Socmai-12/09/11) Hải quân Ấn Độ tiết lộ rằng tàu tấn công đổ bộ INS Airavat, bị một tàu tự nhận là tàu hải quân Trung Quốc yêu cầu cho biết lý do tại sao nó đi trong lãnh thổ Trung Quốc - trong khi nó đã thực sự ngoài khơi bờ biển Việt Nam trên đường đi thăm cảng Hải Phòng.
Và tuần trước, Họ đã được báo cáo rằng một con tàu gián điệp Trung Quốc đã được phát hiện ở quần đảo Andaman của Ấn Độ hồi đầu năm nay.


Tàu INS Aivarat

Một phần tư của một thế giới xa xôi, ở phía đông Địa Trung Hải, hậu quả của việc thu giữ một tàu Thổ Nhĩ Kỳ viện trợ cho Gaza tháng năm năm ngoái của Israel tiếp tục mở ra dư luận và phản đối khắp nơi. Israel kiên định từ chối xin lỗi về cái chết của chín người Thổ Nhĩ Kỳ, người đã bị giết bởi lính Israel trong vụ tấn công tàu, và vào ngày 08 tháng 9, Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã thông báo rằng tàu viện trợ tới Gaza trong tương lai sẽ được hộ tống của hải quân Thổ Nhĩ Kỳ.

Nếu những điều này, nó là chính đáng để tưởng tượng một điểm mà tại đó các quốc gia có sức mạnh quân sự thực - Israel và Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Trung Quốc - bắt đầu đối đầu vào nhau. Hơn nữa, tất cả các quốc gia này, ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ, có vũ khí hạt nhân, mặc dù nó là khó tưởng tượng họ đang được sử dụng trong một cuộc xung đột trên biển. Mặt khác, vì là ranh giới biển và độ trơn trượt của nó làm cho cuộc đối đầu như vậy có thể xảy ra.

Bạn có thể tấn công biên giới đất liền nếu bạn thực sự muốn, nhưng nó là một quyết định rất lớn với những hậu quả khôn lường: một tuyên bố chiến tranh, có hiệu lực. Ngay cả các chính phủ kiêu ngạo hay hoang tưởng sẽ nghĩ lâu dài và khó khăn trước khi bắt tay vào hành động như vậy, và thường họ kết thúc bằng cách quyết định không làm điều đó. Trong khi đó, trên biển, bạn có thể dễ dàng trôi dạt vào một cuộc đối đầu quân sự nghiêm trọng mà không bên nào có ý định.

Đầu tháng này, Thổ Nhĩ Kỳ trục xuất đại sứ Israel và Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan tuyên bố rằng hải quân Thổ Nhĩ Kỳ sẽ hộ tống đoàn tàu viện trợ trong tương lai làm tăng triển vọng của các cuộc đụng độ quân sự thực tế giữa hai nước.

Erdogan có thể không đứng yên để cho bất kỳ công dân Thổ Nhĩ Kỳ nào bị giết nữa, cũng không thể ngăn chặn đoàn tàu trong tương lai để phá vỡ sự phong tỏa của Israel lên Gaza. Israel từ chối xin lỗi về việc giết hại công dân Thổ Nhĩ Kỳ làm cho vấn đề chính trị không thể cho họ coi thường ý kiến ​​công chúng Thổ Nhĩ Kỳ về vấn đề này. Tuy nhiên nếu các tàu chiến của Thổ Nhĩ Kỳ hộ tống tàu viện trợ tiếp theo, nó dễ dàng để tưởng tượng một đợt bùng phát đối đầu hải quân.

Israel tấn công đội tàu viện trợ năm ngoái và vượt quá giới hạn của khu vực phong tỏa đã tuyên bố xung quanh Gaza, và có thể làm như vậy một lần nữa. Israel sẽ có ưu thế trên không, nhưng các tàu chiến của Thổ Nhĩ Kỳ sẽ được kích hoạt cảnh báo cho một cuộc tấn công. Điều này có thể kết thúc rất nặng.

Ngay cả đó là củ khoai tây nhỏ so với tiềm năng cho một cuộc xung đột hải quân ở Biển Đông. Trung Quốc khẳng định rằng hầu như toàn bộ biển này là lãnh thổ của mình, với những ranh giới lướt qua các bờ biển của tất cả các nước khác có biên giới biển: Việt Nam, Mã Lai, Brunei và Phi Luật Tân.

Trung Quốc căn cứ tuyên bố chủ quyền lịch sử của nó đối với các cụm đảo, vùng thấp ở giữa biển, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hà Nội cho biết Bắc Kinh không bao giờ tuyên bố chủ quyền cho đến năm 1940, và rằng những hòn đảo đã thực sự được kiểm soát bởi Việt Nam từ thế kỷ 17. Họ đã chắc chắn dưới sự kiểm soát của Việt Nam đến năm 1974, khi Trung Quốc chiếm bằng vũ lực, giết chết các binh sĩ Việt Nam trong một trận hải chiến.

Việt Nam cũng tuyên bố một số hòn đảo, và tất cả bốn nước Đông Nam Á từ chối yêu cầu của Trung Quốc sở hữu các quyền dưới đáy biển. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, hiện nay vùng biển này được cho là dự trữ lớn dầu và khí đốt.

Tồi tệ nhất của tất cả, Biển Đông là một đường cao tốc biển kết nối châu Âu, Trung Đông và Nam Á với Đông Á và không ai trong số các cường quốc khác sẵn sàng để cho nó nằm dưới sự kiểm soát độc quyền của Trung Quốc. Đó là lý do tại sao một tàu chiến của Ấn Độ đến thăm Việt Nam hồi tháng Bảy, và lý do tại sao Hoa Kỳ là bán tàu chiến và máy bay trực thăng đến Philippines.

Nó là một cầu chì cháy chậm, nhưng đây là cuộc đối đầu chiến lược đáng lo ngại nhất trong thế giới ngày nay.

Nguồn: http://www.newvision.co.ug/D/8/20/764854
Xem thêm »

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Tàu cá Trung Quốc tràn ngập Trường Sa

(Thanhnien Online - 12/09/11) Khoảng 500 tàu cá Trung Quốc đang ngang nhiên hoạt động lâu dài ở khu vực Trường Sa của Việt Nam. Thông tin trên được Cục trưởng Cục Ngư chính Nam Hải (cách Trung Quốc gọi biển Đông) Ngô Tráng tiết lộ trên Tân Hoa xã. Ông này nói rằng sở dĩ có nhiều tàu đến vậy bởi chính quyền Trung Quốc đã tổ chức cho ngư dân phát triển dự án nuôi cá lồng tại đầm nhiệt đới khu vực Mỹ Tế (tức Đá Vành Khăn thuộc Trường Sa).

Tàu ngư chính 310 của Trung Quốc từng tuần tra ở biển Đông và biển Hoa Đông - Ảnh: China-defense-mashup.com

Con tàu đa chức năng Quỳnh Phú Hoa Ngư - 01 vừa được tung đến Trường Sa từ ngày 10.9 từ cảng Tam Á, tỉnh Hải Nam trực thuộc Công ty TNHH phát triển ngư nghiệp Quỳnh Phú Hoa Ngư. Công ty này mới thành lập vào tháng 3.2010. Với trọng tải 1.200 tấn, đây là con tàu lớn nhất trong số 500 tàu cá trên, có trang thiết bị hiện đại. Khi thông tin về tàu Quỳnh Phú Hoa Ngư-01 vừa được công bố, trên không ít các diễn đàn quân sự Trung Quốc như Wenhui.ch, T.qq.com, Xfjs.org, Picaes.com/topic... đã nảy sinh tranh luận sôi nổi. Nhiều ý kiến nghi ngờ con tàu này được trang bị vũ khí và có thể có cả tên lửa.

Hành động của Trung Quốc

Chưa đầy hai tuần sau khi các hướng dẫn thực thi DOC được thống nhất, Nhân dân nhật báo đăng bài xã luận chỉ trích Philippines “vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”. Bài xã luận còn cảnh cáo: “Những ai có quyết định chiến lược sai lầm về vấn đề này (biển Đông) sẽ phải trả giá thích đáng”. Tờ Asahi Shimbun nhận định: “Rõ ràng Trung Quốc cố ý gửi thông điệp cảnh cáo đến tất cả các bên liên quan. Và thực tế, việc này đã tạo ra sự khuấy động trong khu vực”.

Mới đây, hôm 10.9, Tân Hoa xã đưa tin giới chức Trung Quốc vừa điều tàu cá đa năng Quỳnh Phú Hoa Ngư - 01 tới vùng biển Trường Sa của Việt Nam. Giới chức Trung Quốc không nói rõ nhiệm vụ của tàu mà chỉ tuyên bố nó “sẽ hỗ trợ đưa nghề nuôi trồng ngư nghiệp nhiệt đới trong khu vực vào giai đoạn mới”. Rõ ràng động thái này đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam về Trường Sa. Trước đó, đại diện Hải quân Trung Quốc cùng Tập đoàn China Mobile lại ngang nhiên tổ chức lễ nghiệm thu công trình xây dựng trạm điện thoại di động tại những đảo do nước này chiếm giữ ở Trường Sa.

Quan ngại lan rộng

Hành động của Trung Quốc không chỉ gây quan ngại cho các nước có tranh chấp trực tiếp trên biển Đông mà còn cả các nước khác trong khu vực. Ngày 1.9, Chính phủ Ấn Độ ra thông cáo cho hay vào ngày 22.7, tàu INS Airavat vừa rời vùng biển Việt Nam sau chuyến thăm Nha Trang và tiến vào vùng biển quốc tế thì xuất hiện một tàu tự nhận là tàu chiến Trung Quốc cảnh báo tàu Ấn Độ đang xâm phạm vùng biển của nước này. “Ấn Độ ủng hộ quyền tự do đi lại đúng luật pháp trên vùng biển quốc tế”, AFP dẫn thông cáo cho hay. Tuy Bộ Ngoại giao Ấn Độ bác bỏ rằng đó là cuộc đụng độ nhưng giới quan sát bình luận chuyện này cho thấy Bắc Kinh muốn cảnh cáo New Delhi không can dự vào vấn đề biển Đông. Theo Asahi Shimbun, Ấn Độ đang theo dõi sát sao tình hình ở biển Đông vì lo ngại rằng nếu Trung Quốc đạt được mục tiêu ở đây thì chuyện tượng tự cũng có thể xảy ra tại Ấn Độ Dương hay trong tranh chấp trên bộ giữa hai nước.

Nhật Bản cũng đang nhìn về biển Đông với con mắt hồi hộp vì cũng là nước đang có tranh chấp với Trung Quốc trên biển Hoa Đông. Theo Asahi Shimbun, quan điểm hiện nay của Chính phủ Nhật là những gì đang diễn ra ở biển Hoa Đông liên quan mật thiết tới tranh chấp ở biển Đông. “Nhật Bản quan tâm các tranh chấp ở biển Đông vì chúng có ảnh hưởng tới hòa bình và an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương và liên quan tới việc bảo đảm an ninh hàng hải”, tờ báo dẫn lời cựu Ngoại trưởng Nhật Takeaki Matsumoto nhấn mạnh. Trước những quan ngại trên, Nhật, Ấn Độ và Mỹ dự kiến tổ chức cuộc hội đàm cấp cao tay ba lần đầu tiên về an ninh hàng hải tại Tokyo vào đầu tháng 10.
Xem thêm »

VN dưới sức mạnh của TQ

(Socmai-11/09/11) Một số nhà nghiên cứu đã ví Trung Quốc với một con gà trống, Hàn Quốc như mỏ và Việt Nam là chân của nó.


Tương tự những điểm nổi bật trong chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc, đặc biệt là về an ninh cho thấy rằng Việt Nam phải sống dưới trọng lượng của Trung Quốc. Do đó, Việt Nam là, từ Carlyle Thayer dùng, "chuyên chế của địa lý, nơi mà nó không có sự lựa chọn để học cách chia sẻ số phận của mình với nước láng giềng Trung Quốc".

Trung Quốc mạnh mẽ hơn từ lâu đã là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với an ninh của Việt Nam. Việt Nam dưới ách đô hộ của Trung Quốc cho gần một ngàn năm cho đến năm 938. Ngay cả sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam trong nửa sau của thế kỷ 19, Trung Quốc vẫn tham gia tích cực tại Việt Nam thông qua cuộc xâm lược và chiếm đóng, như minh họa bởi các cuộc chiến tranh ngắn gọn nhưng đẫm máu Trung Quốc tiến hành dọc theo biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 và cuộc đụng độ của hải quân do Trung Quốc tiến hành ở Biển Đông tháng 3 năm 1988.

Điều này đặt ra mối đe dọa Trung Quốc đối với Việt Nam không chỉ từ khoảng cách địa lý mà còn là sự bất đối xứng có kích thước và sức mạnh giữa hai nước. Trung Quốc lớn hơn g6a1p 29 lần so với Việt Nam, trong khi dân số của Việt Nam, mặc dù đứng thứ 14 thế giới, vẫn chỉ tương đương với một trong những tỉnh cỡ trung bình của Trung Quốc.

Hiệu suất kinh tế ấn tượng của của Việt Nam từ cuối những năm 1980 đã không cho phép nó thu hẹp khoảng cách về sức mạnh. Điều này là bởi vì hiện đại hóa kinh tế của Trung Quốc đã gây ra khoảng cách quyền lực giữa hai nước trở nên rộng lớn hơn bao giờ hết. Theo dữ liệu Ngân hàng Thế giới, GDP của Trung Quốc đã mở rộng hơn 16 lần từ năm 1985 và 2009 từ 307 tỷ USD đến 4,985 nghìn tỷ USD. GDP của Việt Nam chỉ tăng bảy lần so với cùng kỳ, từ 16 tỷ USD vào năm 1985 lên $ 97 tỷ USD trong năm 2009.

Với sự phát triển kinh tế của nó, có thể quân sự của Trung Quốc đã phát triển đáng kể, đặt ra một mối đe dọa lớn đối với an ninh của Việt Nam. Theo tuyên bố chính thức của Trung Quốc, ngân sách quân sự cho năm 2011 là 91,5 tỷ USD, trong khi Việt Nam được cho là đã phân bổ chỉ 2,6 tỷ USD. Đặc biệt đáng lo ngại cho Việt Nam là mở rộng ngân sách quân sự của Trung Quốc tập trung vào lực lượng không quân và hải quân, tăng cường năng lực của Trung Quốc vào biển Đông nơi Trung Quốc và Việt Nam đã tranh chấp chủ quyền.

Chuyển đổi của Việt Nam đối với một nền kinh tế thị trường mở cũng cho biết thêm một khía cạnh khác của chuyên chế địa lý: gia tăng kinh tế dễ bị tổn thương.

Kể từ khi Việt Nam tiếp tục thương mại với Trung Quốc vào cuối những năm 1980, sản xuất trong nước đã từ lâu bị đe dọa bởi hàng hóa Trung Quốc tràn ngập đất nước thông qua thương mại (buôn lậu) cả hai chính thức và không chính thức. Điều này không chỉ tạo nên một tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước Việt Nam, nhưng cũng đặt người tiêu dùng Việt Nam có nguy cơ khi hàng nhập lậu là độc hại và có hại cho sức khỏe của người dân.

Dễ bị tổn thương khác là thâm hụt thương mại lâu năm của Việt Nam với Trung Quốc, lên tới 5,4 tỷ USD thâm hụt thương mại của đất nước 7,5 tỷ USD trong nửa đầu năm 2011. Trung Quốc cũng đã nổi lên như là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần một phần tư kim ngạch nhập khẩu trong năm 2010. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc đối với nguyên liệu đầu vào cho một số ngành công nghiệp xuất khẩu chủ yếu của nó, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ là một phần rất nhỏ của tổng nhập khẩu từ Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không tiếp tục thương mại với Việt Nam vì một lý do nào đó, thiệt hại cho nền kinh tế của Việt Nam sẽ là bao la.

Mối quan tâm khác là các công ty Trung Quốc đã giành chiến thắng lên đến 90% của EPC (kỹ thuật, mua sắm và xây dựng) hợp đồng cho các dự án công nghiệp lớn của Việt Nam, đặc biệt là các nhà máy điện đốt than. Nhà thầu Trung Quốc được ưa chuộng như họ cung cấp công nghệ giá rẻ và hứa sẽ giúp đỡ bố trí kinh phí tài chính từ ngân hàng Trung Quốc.

Tuy nhiên, mặc dù các dự án này xuất hiện với giá rẻ, trong thực tế VN trả giá đắt. Đầu tiên, công nghệ giá rẻ thường là gây ô nhiễm môi trường. Báo cáo cho thấy một số công nghệ được cung cấp bởi các công ty Trung Quốc đã ngưng hoặc cấm ở Trung Quốc kể từ năm 2005. Thứ hai, năng lực nhà thầu Trung Quốc kỹ thuật hạn chế, khiến dự án bị trì hoãn. Ngay cả khi dự án hoàn thành đúng thời hạn, kém chất lượng xây dựng thường để lại các chủ dự án với các hóa đơn bảo dưỡng đắt tiền. Thứ ba, là nhà thầu Trung Quốc từ chối sử dụng sản phẩm sẵn có ở địa phương, thay vì nhập khẩu mọi thứ từ Trung Quốc, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng vọt. Nhà thầu Trung Quốc thậm chí bất hợp pháp đưa lao động Trung Quốc sang Việt Nam, kích động sự phẫn nộ của công chúng tại Việt Nam.

Một lỗ hổng kinh tế gần đây đã tiếp nhìn thấy với Việt Nam liên quan đến các thương gia Trung Quốc mua số lượng lớn các sản phẩm nông nghiệp Việt. Điều này làm cho giá lương thực tăng tại Việt Nam, và bất chấp những nỗ lực tuyệt vọng của chính phủ để kiềm chế lạm phát, tăng 20,8% trong tháng 6 năm 2011.

Tuy nhiên, Việt Nam dường như có vài lựa chọn để đối phó với các lỗ hổng kinh tế đang phải đối mặt với Trung Quốc. Một mặt, bất kỳ phản ứng có thể có khả năng sẽ bị hạn chế do Việt Nam phải tuân thủ quy tắc thương mại quốc tế và đầu tư, khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007. Mặt khác, Việt Nam hy vọng rằng phát triển (mặc dù bất đối xứng) kinh tế phụ thuộc lẫn nhau sẽ giúp làm giảm khả năng của Trung Quốc có hành động quân sự hung hăng chống lại Việt Nam, đặc biệt là trong vùng biển Đông. Và, mặc dù có những hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn tìm thấy nó rẻ hơn nhiều và thuận tiện hơn để làm việc với người hàng xóm lờ mờ của nó so với các đối tác khác.

Kết quả là, Việt Nam tiếp tục tích cực làm kinh doanh với Trung Quốc, đặc biệt là cho sự quyến rủ của nền kinh tế đang bùng nổ của người hàng xóm phía Bắc. Nhưng, như người Việt Nam nói, "Ngọt mật chết ruồi". Bài học ở đây là điều cần thiết cho Việt Nam ở nhận thức đầy đủ mối đe dọa tiềm năng của Trung Quốc, nó phải phát triển các chiến lược để trung hòa các khía cạnh kinh tế của sự chuyên chế của địa lý đất nước.

Tác giả Lê Hồng Hiệp là một giảng viên tại Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh, và hiện đang là một ứng cử viên tiến sĩ tại Đại học NewSouth Wales, Úc.

Một phiên bản của bài viết này ban đầu được công bố bởi các nhà ngoại giao.
Xem thêm »