Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

Phát hiện vỉa dầu lớn gần mỏ Bạch Hổ

(TTXVN/Vietnam+) Ngày 29/6, ông Trần Hồi - Phó Tổng giám đốc địa chất Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro cho biết ngày 27/6, khi thử vỉa ở tầng cát kết tuổi Mioxen ở độ sâu 3.377-3.396m, đơn vị này đã phát hiện dòng dầu tự phun khá mạnh với lưu lượng khoảng 4.560 thùng/ngày.
Vị trí vỉa dầu này thuộc lô 09-1 ở phía Tây Bắc mỏ Bạch Hổ. Đây là vỉa dầu mới và hoàn toàn độc lập mỏ Bạch Hổ đang được khai thác.


Vị trí vỉa dầu này thuộc lô 09-1 ở phía Tây Bắc mỏ Bạch Hổ. Đây là vỉa dầu mới và hoàn toàn độc lập mỏ Bạch Hổ đang được khai thác.

Việc phát hiện vỉa dầu mới đúng vào dịp Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro tròn 30 năm thành lập đã trở thành một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt.

Cũng theo ông Trần Hồi, gần sát vỉa dầu mới được phát hiện này đã có một giàn khoan cố định hiện hữu. Vì vậy, chỉ cần khoan xiên là có thể đưa ngay vỉa dầu mới này vào khai thác, giảm bớt chi phí.

Hiện đơn vị đang tiến hành đánh giá trữ lượng vỉa dầu và xây dựng phương án khai thác./

Các nguồn trên internet đưa tin:

BIỂN ĐÔNG (VB) -- Hôm Thứ Tư 29-6-2011, trong khi Việt Nam loan báo tìm ra vỉa dầu lớn ngoài khơi gần mỏ Bạch Hổ, tình hình Biển Đông đột nhiên im lặng dị thường về phía dư luận báo chí ở VN.
Thông tấn VOV từ Hà Nội đã dịu giọng, nói rằng “Trung Quốc mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam.”
Đặc biệt, đạị diện Đài Loan tại Bắc Kinh lớn tiếng rằng Đài Loan sẽ giúp TQ giữ chủ quyền ở Biển Đông.
Chỉ duy có phía Philippines nói rằng sẽ “thách thức Trung Quốc bằng kế hoạch cho phép thăm dò dầu khí tại Biển Đông.”
Bản tin từ TTXVN cho biết Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro đã phát hiện dòng dầu tự phun khá mạnh với lưu lượng khoảng 4.560 thùng/ngày.
Vị trí vỉa dầu này thuộc lô 09-1 ở phía Tây Bắc mỏ Bạch Hổ. Đây là vỉa dầu mới và hoàn toàn độc lập mỏ Bạch Hổ đang được khai thác.

Báo chí VN đặc biệt im lặng lạ thường hôm Thứ Tư, không bàn gì chuyện Biển Đông nữa, chỉ duy đài VOV từ Hà Nội nói rằng “Trung Quốc mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam.”
VOV nói: “Ngày 1/7, Trung Quốc sẽ kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong buổi trả lời phỏng vấn phóng viên Đài TNVN thường trú tại Trung Quốc, Phó trưởng Ban liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lưu Kết Nhất cho biết... Việt Nam và Trung Quốc là những nước Xã hội Chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có lý tưởng và mục tiêu chung.

Trong tình hình thế giới có những biến đổi phức tạp, sâu sắc như hiện nay, Trung Quốc mong muốn nỗ lực cùng với phía Việt Nam... tăng cường tin tưởng chiến lược, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau thúc đẩy xây dựng sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, duy trì hòa bình, ổn định khu vực, duy trì sự phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn định của quan hệ hai nước... dưới phương châm chỉ đạo của 16 chữ và tinh thần 4 tốt, thúc đẩy quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển lên phía trước...”

Có vẻ như hai nước TQ-VN đã có một hiệp ước về Biển Đông, nhưng không rõ chi tiết thế nào. Mặt khác, tình hình báo chí VN bị cấm bàn về Biển Đông cũng là một phần lời hứa của Thứ Trưởng Ngoạị Giao VN Hồ Xuân Sơn nói sẽ tạo dư luận sau khi sang Bắc Kinh họp để thương lượng.
Cần nhắc rằng, trong một cuộc họp báo chiều hôm Thứ Ba tại Bắc Kinh, ông Hồng Lỗi, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhắc lại rằng nhân chuyến viếng thăm của đặc sứ Việt Nam Hồ Xuân Sơn, ngày 25/06, hai bên đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua các cuộc đàm phán và tránh những động thái có thể làm vấn đề trầm trọng hay phức tạp thêm.


Đặc biệt là ngôn ngữ ám chỉ Mỹ: Theo đại diện Trung Quốc, cả hai nước đều «phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam và cam kết sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước ».

RFI ghi thêm, hãng tin Tân Hoa Xã vào hôm Thứ Ba đã nhắc lại sự kiện mà họ cho là vào năm 1958, Bắc Kinh đã khẳng định các hòn đảo trên Biển Đông thuộc lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc và chính cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã tỏ sự tán đồng trong bức thư ngoại giao của mình gửi tới đồng nhiệm Trung Quốc khi đó.

Bản tin VOA hôm Thứ Tư ghi rằng tại một cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm Thứ Tư, ông Dương Nghị, phát ngôn nhân Văn phòng Đài Loan Sự vụ, nhấn mạnh cả hai bên của Eo biển Đài Loan có nhiệm vụ phải bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc tại thủy lộ chiến lược này.

Bản tin nói, “Ông Dương cũng lặp lại tuyên bố của Bắc Kinh rằng chủ quyền của Trung Quốc tại các quần đảo trên Biển Đông và vùng lãnh hải xung quanh là không thể tranh cãi.”
Bản tin RFI hôm Thứ Tư lại cho biết, Bộ Năng lượng Philippines cho biết là sẽ cấp nhiều giấy phép hơn cho các công ty tư nhân để tìm kiếm dầu khí tại vùng Biển Đông. Theo Manila, tổng cộng 15 hợp đồng thăm dò, chủ yếu tại vùng biển ngoài khơi đảo Palawan (Tây Philippines) sẽ được đề nghị vào Thứ Năm 30-6-2011 cho các khách hàng tiềm tàng.

RFI thêm rằng, theo các nhà quan sát, quyết định mời nhiều tập đoàn quốc tế tham gia thăm dò dầu khí ngoài khơi Philippines có thể được xem là một phản ứng cứng rắn của Manila sau một loạt những hành động hù dọa của Bắc Kinh. Trong số các hành vi này, có cả việc Trung Quốc cho tàu đột nhập vào vùng Reed Bank, xua đuổi một chiếc tàu thăm dò dầu khí cho Philippines.

Cũng trên RFI, một bản tin cho biết từ hôm Thứ Ba, hải quân Philippines và Hoa Kỳ đã khởi động một cuộc tập trận chung tại vùng biển Philippines gần quần đảo Trường Sa. Tư lệnh Hạm đội 7 của Mỹ, Phó Đô đốc Scott Van Buskirk, đã nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ và Philippines là "đồng minh" với nhau từ lâu và xác định : «Liên minh của chúng tôi dựa trên nền tảng một sự quan tâm sâu sắc và mang tính ràng buộc của Mỹ đến sự tự do và an ninh của nước Cộng hòa Philippines ».
Xem thêm »

Điệp khúc Biển Đông Do-Si-Do

(The Wall Street Journal-30/06) Việt Nam và Philippines tiếp tục thể hiện sự tức giận việc tàu hải quân và máy bay Trung Quốc đe doạ tàu đánh cá trong vùng biển tranh chấp của biển Đông. Họ muốn Mỹ phát tín hiệu rõ ràng hơn , và một số chính trị gia Mỹ muốn cung cấp (hoả lực?) cho 2 nước này. Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết không ràng buộc thứ hai lên án các hành động của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đã bác bỏ. Tuần trước, Thứ trưởng Ngoại giao Cui Tiankai (Trung Quốc) cảnh báo rằng "các nước đang thực sự chơi với lửa, và tôi hy vọng ngọn lửa sẽ không được đốt lên cho Hoa Kỳ." ( "the individual countries are actually playing with fire, and I hope the fire will not be drawn to the United States.")

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đang nắm giử một nhóm có lập trường mà Bà đặt ra hồi tháng Bảy tại Hà Nội: Hoa Kỳ không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng họ muốn đóng một vai trò trong giải pháp hòa bình của họ, vì lợi ích của nó (Mỹ) rộng hơn trong khu vực và hỗ trợ cho tự do hàng hải trên các đại dương. Đó là một lập trường mạnh mẽ tại thời điểm đó. Nhưng khi Trung Quốc tiếp tục nhồi thêm căng thẳng đó có thể là thời gian cho một cái gì đó mạnh mẽ hơn.

Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario ở Washington hồi tuần trước làm rõ tìm kiếm của Hiệp ước 1951 Quốc phòng lẫn nhau giữa hai nước(1). Trong trường hợp của một cuộc tấn công vào Việt Nam, từ ngữ của hiệp định mà chỉ buộc Washington để "tham khảo" và "hành động để đáp ứng những mối nguy hiểm chung." Trong vài ngày qua các phương tiện truyền thông Philippines đã đuổi theo cái đuôi của nó cố gắng tìm hiểu xem bà Clinton và Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Thomas Harry khẳng định cam kết này của Mỹ.

Các tin tức cho thấy là Việt Nam sẽ trở lại vào quỹ đạo của Mỹ. Như gần đây là đầu năm, Hà Nội dường như tán tỉnh Bắc Kinh, ví dụ, bằng cách dẫn độ công dân Đài Loan vào đại lục mà không tham vấn Đài Bắc, do đó gây ra một vết nứt với một đối tác thương mại lớn.

Các căng thẳng hiện nay là kết quả của Trung Quốc đã quá tay của nó. Đặc biệt đáng báo động là Quân đội Giải phóng nhân dân dường như được lệnh của Trung Quốc để thôn tính Biển Đông. Tàu hải quân của Trung Quốc đã tham gia vào cuộc đối đầu ngay cả khi các nhà ngoại giao của nó đã xem xét hòa giải khu vực. Trong khi còn quá sớm để nói rằng Bắc Kinh đang đi theo con đường quân phiệt, chắc chắn nó có mối quan tâm tập trung ở Đông Nam Á.

Mỹ và bạn bè khu vực của họ có hai mục tiêu chính. Đầu tiên là nâng cấp Tuyên bố năm 2002 về ứng xử của các bên ở Biển Đông, mà Trung Quốc đã thường xuyên vi phạm, và làm thế nào buộc Trung Quốc phải tôn trọng tuyên bố này. Bắc Kinh dường như được nối lại chính sách của mình là "sự quyết đoán leo thang" bằng việc đã rồi (tức bất ngờ tấn công rồi dư luận có nói gì cũng đã rồi).

Thứ hai là để thuyết phục Trung Quốc giải thích rõ ràng cơ sở tuyên bố của mình đối với các đảo và vùng biển xung quanh chúng. Singapore, không có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, gần đây đã kêu gọi Bắc Kinh "làm rõ tuyên bố của mình với độ chính xác hơn là sự mơ hồ đến mức độ như hiện tại của họ đã gây ra mối quan ngại nghiêm trọng trong cộng đồng hàng hải quốc tế."

Điều này quan trọng bởi vì Bắc Kinh đã từ lâu tuyên bố Biển Đông là "vùng nước lịch sử" của nó rõ ràng trên cơ sở bản đồ 1947 cho thấy một đường hình chữ U chấm khoảng 90% diện tích, bao gồm cả vùng nước ven biển của các quốc gia khác. Pháp luật hải quan, mà Bắc Kinh đang ký thông qua hiệp ước Luật Biển, không công nhận tuyên bố như vậy.

Không có nghi ngờ Bắc Kinh muốn tránh điều đó. Chiến thuật của họ là giải quyết vấn đề trên cơ sở song phương với mỗi người hàng xóm Đông Nam Á, để họ có thể gây sức ép bằng sức mạnh như kinh tế và quân sự cao cấp của họ. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã có một số thành công trong việc thúc giục Trung Quốc đàm phán đa phương nghiêm túc trong những năm 2000.

Bây giờ là thống nhất ASEAN một lần nữa, sự tham gia của Mỹ trong vụ tranh chấp là một con chip thương lượng quan trọng. Nếu Trung Quốc tiếp tục rao giảng hòa bình trong khi lực lượng của nó quấy rối tàu khác, các quốc gia ASEAN sẽ được thúc đẩy để thắt chặt các thỏa thuận an ninh của họ với Mỹ. Một số dấu hiệu cho thấy không có mơ hồ từ Washington rằng họ sẽ là một đối tác sẵn sàng nhằm đặt Bắc Kinh vào thế cần phải kiềm chế quân đội và đặt tranh chấp cho một giải pháp thương lượng.

Tóm lại: Trung Quốc tăng cường gây sức ép khi Việt Nam hoà dịu. Khi bị chèn ép Việt Nam kêu gọi Mỹ giúp đỡ . Chính sách 2 mặt của Việt Nam liệu có làm người Mỹ cảm thấy mình đang bị lợi dụng ?


(1):Chiếu theo hiệp ước Mỹ- Philippines 1951, nước này có nghĩa vụ giúp nước kia phòng thủ trong trường hợp bị một quốc gia khác tấn công trên lảnh thổ chính quốc hoặc trên vùng Thái Bình Dương. Nhưng vấn đề đang được đặt ra là hiệp ước này có thể được áp dụng trong trường hợp quân đội Philippines bị tấn công trên một vùng lãnh thổ đang tranh chấp với Trung Quốc và một số nước khác hay không.
Xem thêm »

Thư tịch Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam

(Baodatviet-29/06) Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).

Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.

Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài. Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.


Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt.
Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao Chỉ.
Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.

Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427 Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407).

Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan.

Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...). Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII.
Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) đã được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà bình và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của nhiều triều đại Trung Quốc trong đó đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.
Xem thêm »

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Tranh chấp Biển Đông có thể dẫn tới chiến tranh (Reuters)

(Nguồn: Reuters đăng trên Vietnamnet ngày 29/06) Rủi ro ngày càng gia tăng trong những vụ việc xảy ra trên biển liên quan tới Trung Quốc có thể dẫn tới chiến tranh ở châu Á, Viện Lowy về các chính sách quốc tế của Australia cảnh báo.
Tập trung vào Biển Đông và biển Hoa Đông, cách hành xử liều lĩnh của quân đội Trung Quốc, những nhu cầu về tài nguyên và sự quả quyết lớn hơn, có thể dẫn tới xung đột vũ trang thu hút Mỹ và những cường quốc khác, Viện Lowy nói trong một báo cáo.

"Các tuyến đường biển của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trở nên đông đúc hơn, tranh cãi nhiều hơn và nguy cơ xung đột lớn hơn. Các lực lượng hải quân và không quân được củng cố giữa lúc diễn ra sự thay đổi cán cân kinh tế chiến lược”, tác giả báo cáo Rory Medcalf và Raoul Heinrichs viết.

"Sự va chạm của Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ dường như dai dẳng và gia tăng. Khi số lượng và tốc độ những vụ việc gia tăng, thì rất dễ leo thang thành đối đầu vũ trang, khủng hoảng ngoại giao hay thậm chí là xung đột”, báo cáo cho biết.

Nghiên cứu về những cường quốc chính và an ninh hàng hải ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương xuất bản giữa lúc Trung Quốc chuẩn bị ra mắt tàu sân bay đầu tiên (có lẽ trong tuần này) – một diễn biến gây lo lắng trong khu vực về việc Trung Quốc không ngừng mở rộng sức mạnh quân sự.
Trong tháng này, Trung Quốc đã điều một trong những tàu tuần tra dân sự lớn nhất tới Biển Đông. Còn trong hôm qua (27/6), Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết phàn nàn về việc Trung Quốc dùng vũ lực chống lại các tàu Việt Nam và Philippines ở Biển Đông.

“Vùng nguy hiểm”

Theo Medcalf và Heinrichs các hoạt động tuần tra hàng hải nhiều hơn, việc xâm nhập giám sát, cùng với sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc và tranh chấp tài nguyên… tất cả đã gây khó khăn lớn hơn trong việc kiềm chế những tranh cãi về chủ quyền hàng hải. "Tất cả những yếu tố này đang làm cho châu Á trở thành một vùng nguy hiểm với các vụ việc xảy ra trên biển: những cuộc đụng độ cự ly gần bao gồm các tàu và máy bay từ các bên đối đầu, đặc biệt là ở những khu vực nhạy cảm hay tranh chấp”, báo cáo nhấn mạnh.

Báo cáo đề cập chi tiết tới căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật, đặc biệt là từ tháng 4/2010 khi hải quân Trung Quốc diễn tập ở gần đảo Okinawa, phía nam Nhật Bản; tiếp sau đó là việc Nhật Bản bắt giữ một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc – người bị cáo buộc đã cố tình đâm vào một tàu tuần tra của Nhật.

Những vụ việc này đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng ngoại giao và thậm chí Trung Quốc còn tạm ngừng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật.

Mặc dù đã có những dấu hiệu ban đầu về sự ấm lên trong quan hệ song phương Nhật – Trung sau thảm họa sóng thần, động đất và cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Nhật hồi tháng 3, nhưng quan hệ an ninh vẫn ở mức căng thẳng khi tháng trước, Nhật Bản phải nhanh chóng điều máy bay chiến đấu khi các máy bay Trung Quốc đến gần quần đảo tranh chấp.

Báo cáo đề cập tới việc Bắc Kinh khiến những quốc gia Đông Nam Á lo lắng về “lợi ích cốt lõi” ở Biển Đông, và tại Australia là sự quan ngại về hành xử an ninh trong tương lai của Trung Quốc trong khi có khá nhiều đồn đoán rằng, cuộc cạnh tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc trên biển “chỉ là vấn đề thời gian”.

Medcalf và Heinrichs cho rằng, những nỗ lực mới là điều cần thiết để xây dựng lòng tin trong khu vực và cần có sự tham gia của Trung Quốc trong các cuộc đối thoại quân sự tiếp tục diễn ra với Mỹ và Nhật Bản. Theo họ, các đường dây nóng về an ninh hàng hải cũng thực sự cần thiết giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Nhật Bản và Trung Quốc để tạo điều kiện cho những phản ứng kịp thời với bất kỳ vụ việc nào.
Theo Reuters
Xem thêm »

Trung Quốc kêu gọi sự đồng thuận với Việt Nam về vấn đề Biển Đông

Bắc Kinh, 28/06 (Xinhua) - Trung Quốc hôm thứ Ba kêu gọi Việt Nam thực hiện một sự đồng thuận song phương về vấn đề biển Nam Trung Quốc (tức Biển Đông) đã đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của đặc phái viên Việt Nam Hồ Xuân Sơn cuối tuần qua.

"Chúng tôi đã có chiều sâu thảo luận với phía Việt Nam về vấn đề biển Nam Trung Quốc trong chuyến thăm của phái viên đặc biệt, và hai bên nhất trí giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn thân thiện và tránh làm phức tạp vấn đề," ông Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi tại một cuộc họp báo.

Quan điểm của hai nước đều là trái ngược với truyền thông bên ngoài nhận được liên quan đến việc tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam và nguyện tích cực hướng dẫn dư luận và bảo vệ chống lại những nhận xét hay hành động phá hoại tình hữu nghị và tin cậy giữa nhân dân hai nước, Hồng nói.

"Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam sẽ thực hiện sự đồng thuận cùng với chúng tôi và thực hiện những nỗ lực để bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông", Hồng nói.

Trong chuyến thăm vừa kết thúc của Hồ Xuân Sơn, cũng là Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ông đã gặp với Hội viên Hội đồng nhà nước Đới Bỉnh Quốc và hội đàm với Thứ trưởng Ngoại giao Zhang Zhijun.

Hai bên nhất trí để tăng tốc độ tham vấn qua hiệp ước liên quan đến các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Việt Nam, cam kết làm việc nhiều hơn để ký thỏa thuận càng sớm càng tốt, theo một thông cáo báo chí từ Bộ Ngoại giao về cuộc họp giữa Ông Đới và Hồ Xuân Sơn.

Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố chủ quyền không thể chối cãi trên biển Đông hải đảo và vùng biển xung quanh.

Hồ sơ lịch sử Trung Quốc cho thấy trong năm 1958, chính phủ Trung Quốc tuyên bố các đảo trong Biển Đông như một phần của lãnh thổ có chủ quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng bày tỏ thỏa thuận trong công hàm của mình đến chính phủ Trung Quốc.

Không có sự bất đồng từ bất cứ nước nào trên chủ quyền của Trung Quốc trên khu vực cho đến những năm 1970, khi các nước bao gồm cả Việt Nam và Philippines tuyên bố chủ quyền một phần.

Sau thời gian dài đàm phán và tranh chấp, Đặng Tiểu Bình khởi xướng đề xuất của ông về vấn đề mà đặt sang một bên những tranh chấp và đề nghị khai thác chung trong khu vực.

Tháng Mười Một năm 2002, Trung Quốc và 10 nước thành viên ASEAN đã thông qua Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Nam Trung Hoa, đặt một nền tảng chính trị cho sự hợp tác thương mại trong tương lai có thể có giữa Trung Quốc và các nước ASEAN cũng như hòa bình lâu dài và ổn định trong khu vực.

Trong tháng ba năm 2005, ba công ty dầu mỏ từ Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đã ký một thỏa thuận ba bên ở Manila để cùng khách hàng tiềm năng khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Xem thêm »

Khả Năng Quân Sự của VN Nếu Xảy Ra Chiến Tranh với Ký giả Phạm Trần

Mặc dù Việt Nam và Trung Quốc mới thỏa thuận “Thông tin báo chí chung”, nhưng có vẻ TQ đang rất sốt ruột muốn VN và TQ thực hiện nhanh vấn đề này, nhằm tạo cho Mỹ phải đứng ngoài trong tranh chấp Biển Đông. Ngược lại, phía Vn lại càng không dại mà đi vào guồng xoay của TQ vừa ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, đồng thời lại làm bẽ mặt Mỹ, trong khi hai nước Việt – Mỹ đang đi muốn đến một tầm cao mới trong quan hệ hai nước. Chính điều này có thể làm TQ phật ý và có thể có biến cố xẩy ra trong tháng 7 tới.


Xem thêm »

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

Quyền lực mới của cộng đồng blog Việt Nam

Báo chí dường như cũng tựa mô hình hợp tác xã (HTX) trong nông nghiệp. Và weblog cá nhân là sự cởi thoát khỏi mô hình HTX tư tưởng ấy, Blogger Trương Duy Nhất nói.
BLOG đã trở thành một không gian thông tin quyền lực mới. Tất cả mọi người, bất kể ai, nếu muốn, đều có thể trở thành nhà báo thông qua weblog. Ai cũng có thể tạo ra phương tiện truyền thông theo cách của riêng mình. BLOG sẽ có người mua. Giá trị và quyền lực của BLOG buộc báo chí phải bắt tay hợp tác.

Thời gian gần đây, Việt Nam chứng kiến một sức mạnh mới của cộng đồng blog, những người có cùng chí hướng tập hợp lại bằng cách tạo ra một nhóm của riêng họ, bài đăng trên blog này được cập nhật ngay lập tức trên blog kia bằng một ứng dụng tự động. Họ đã tạo ra một "siêu liên kết" và trở thành một cộng đồng khổng lồ. Có nhiều blog đã trở thành siêu blog với hơn 100.000 ngàn lượt xem mỗi ngày. Khi blog bị chặn, họ chỉ mất vài cú nhấp chuột để tạo ra blog mới và 15 phút sau một bài đăng đầu tiên được xuất bản.

Một điển hình cho quyền lực này là họ đã tạo ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc sôi nổi ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Các tựa đề như: "Thư gởi các bạn trẻ yêu nước", "Đánh cho dập đầu bọn bành trướng Bắc Kinh", "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam", "Việt Nam hãy chuẩn bị một cuộc chiến tranh vệ quốc",..... được nhìn thấy khắp nơi. Tư tưởng tự tôn dân tộc chống ngoại xâm được nung nấu lâu ngày thì... "Chuyện gì tới nó tới".

Theo một phiếu thăm dò đăng trên blog Socmai ngày 10/06/11 với câu hỏi:"Việt - Trung: Nguy cơ xung đột quân sự Biển Đông? ". Đến 10h20 ngày 27/06/11 có 101,083 ngàn lượt xem trang ( không tính số lần hiển thị của admin (Don't track yuor own pageviews). Trong đó có 142 đọc giả bỏ phiếu ( Mỗi 1 đọc giả sử dụng 1 máy vi tính chỉ được bỏ 1 phiếu), 71% đọc giả trả lời "Có", 25% trả lời "không". Việc chọn "Có" cho thấy họ có tâm lý không sợ chiến tranh (?!) và số trả lời "Không" chưa chắc đã sợ chiến tranh (?), đơn giản họ nghĩ là không xãy ra thì họ trả lời là "Không".


Mọi thể chế đều có áp lực khác nhau và nhà báo ở Mỹ cũng vậy. Đó cũng là lý do vì sao người ta tìm đến Weblog. Vì có thể họ thấy CNN quá thương mại hoặc không yêu nước, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, Weblog không cần giống CNN, NY Times hay Fox News. Ở đây, bạn có thể nói lên quan điểm của mình.

Trong dự án… “Tiếng nói toàn cầu”, chúng tôi dự kiến tạo ra một địa chỉ cho các blogger trên toàn thế giới có thể tìm đến nhau. Ở đây, chúng tôi có những blog đến từ Iran và những người trẻ tuổi ở đây kể về những gì diễn ra xung quanh họ và mọi người từ khắp nơi sẽ có thể nói lên ý kiến của mình. Trước kia, muốn trích dẫn một ý kiến từ người dân Iran, bạn phải lên các phương tiện thông tin để tìm, bây giờ chỉ cần vào weblog là có được. Trên đó, bạn biết được người dân Iran hay Iraq phản ứng như thế nào với những biến cố trong đất nước của họ. Ở Iraq, một số ủng hộ chính quyền Mỹ còn một số phản đối. Nhiều ý kiến trái ngược trên diễn đàn này.

Cộng đồng weblog trên thế giới đang gia tăng nhanh chóng. Thậm chí ở Kenya, có rất nhiều người viết về cuộc sống và phản ứng của họ về những sự kiện diễn ra xung quanh họ và các bạn có thể thấy tất cả những gì diễn ra qua con mắt của chính người dân địa phương.

Chúng tôi đang tạo ra một diễn đàn mà người dân ở khắp nơi trên thế giới có thể phát biểu ý kiến của họ. Tuần trước, weblog của chúng tôi đã chứng kiến ý kiến của các bloger từ Trung Quốc và Nhật Bản về sự kiện các cuộc biểu tình của người Trung Quốc phản đối Nhật. Ở đây đã diễn ra các cuộc tranh luận, các bạn nên hiểu rằng đây là nơi trao đổi ý kiến có lý lẽ chứ không phải là những lời nói xấc xược hay lăng nhục vô căn cứ… vì với những đối tượng như vậy, chúng tôi sẽ xoá ngay lập tức.

Như vậy, chúng tôi đã tạo ra các cuộc đối thoại, đàm thoại, xây dựng cầu nối giữa những người ở các quốc gia khác nhau để giúp họ hiểu nhau hơn.

Tôi rất hy vọng sẽ có nhiều bloger từ VN nói lên quan điểm của họ về thế giới và cũng là để giúp cho người dân các nước khác, chẳng hạn như Mỹ, hiểu về VN hơn.


Weblog sẽ tạo ra một không gian thông tin quyền lực.
Một số weblog còn thu hút được 100.000 độc giả mỗi ngày, chẳng khác nào một tờ báo ăn khách thực sự.

Có người cho rằng nó có thể phá huỷ toàn bộ các phương tiện truyền thông truyền thống, nhưng tôi cho rằng không phải như vậy. Weblog chỉ đóng góp thêm 1 tiếng nói cho truyền thông mà thôi. Một mặt, bạn sẽ có các thông tin chính thống, mặt khác, bạn sẽ tiếp cận được những tiếng nói cá nhân. Trong quá trình đó, các bloger cũng sẽ nâng cao trách nhiệm của mình. Bloger nào làm tốt sẽ được cơ quan truyền thông đánh giá cao và đăng tải lại bài. Như vậy giữa hai bên có sự tương trợ cho nhau. Các phương tiện truyền thông cũng có thể nhờ các bloger cải thiện mối quan hệ với khách hàng của mình thông qua các bloger, điều trước đây không thể làm được.

Vấn đề này hết sức quan trọng vì hiện nay ở Mỹ, lượng phát hành của các báo, lượng khán giả của truyền hình đang giảm. Các hãng truyền thông đã phải nỗ lực khôi phục sự trung thành của khách hàng mà điều này có thể làm rất tốt thông qua các bloger. Nếu các cơ quan truyền thông muốn khách hàng hàng ngày đọc báo mình, vào kênh truyền hình của mình, truy cập vào tràn web của mình, thì phải tăng cường chăm sóc họ. Muốn vậy có thể khuyến khích các forum. Và đó là biện pháp tốt nhất để nhận được sự phản hồi từ phía khách hàng.

Sự tương tác càng nhiều, công chúng càng tin tưởng ở các cơ quan truyền thông, khách hàng càng tin tưởng, càng đọc báo nhiều hơn, xem TV nhiều hơn. Trong số khách hàng đó cũng có nhiều bloger, họ đều biết rằng nếu họ viết tốt hơn thì các phương tiện truyền thông sẽ đăng tải bài của họ và như vậy họ càng trung thành với website, báo, kênh TV hơn. Không những thế họ còn sẵn sàng giúp các cơ quan truyền thông cải thiện quan hệ với công chúng hơn.
(Trích phát biểu của nữ nhà báo Rebecca McKinnon đăng trên Vietnamnet)

“Trung Quốc đầu tiên đã có một giới công khai thảo luận mọi thứ ảnh hưởng tới người dân Trung Quốc”, Hồ Dũng, một chuyên gia nghiên cứu cộng đồng blog tại Đại học Bắc Kinh nói. “Dưới thời truyền thông truyền thống, chỉ có người tầng lớp trên mới có tiếng nói, nhưng Internet đã thay đổi tất cả”, ông nhấn mạnh. “Giờ đây, chúng ta có một kiểu truyền thông vượt phạm vi quốc gia, đó là tiếng nói của toàn xã hội, vì thế mọi người từ các vùng miền khác nhau của Trung Quốc có thể thảo luận về những gì đang diễn ra ở một nơi xa xôi hẻo lánh, và tin tức lan truyền đi khắp nơi”. Ông tiếp tục, nhưng thế giới Internet thiên về “chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân tuý hơn. Nhiều năm chúng ta được giáo dục kẻ thù đang nỗ lực kìm nén chúng ta đã sản sinh ra cả một thế hệ thanh niên có tư tưởng như vậy, và giờ đây, họ có internet để thể hiện điều đó”.

* Các blog nổi tiếng ở Việt Nam. Đây chỉ là các blog đưa tin bình thường, không liên quan đến nội dung bài viết. Danh sách dưới đây không phải bản xếp hạng và bỏ qua các blog giải trí.

1. Nhật báo Ba Sàm
2. Bọ Lập's Blog
3. Nguyễn Xuân Diện's Blog
4. Bauxite Việt Nam
5. Mai Thanh Hải's Blog
6. Nguyễn Ngọc Tư
7. Anh Vũ Blog
.......
Xem thêm »

Đàm phán song phương: Bất lợi cho Việt Nam

Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn: Như các bạn đã biết, sau khi hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc cuối tháng 12/2008, ta và Trung Quốc đã thỏa thuận chuyển trọng tâm đàm phán về công tác biên giới lãnh thổ sang vấn đề trên biển.
Hai bên nhất trí trước khi đi vào giải quyết các vấn đề cụ thể cần đàm phán ký kết Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Đó là những định hướng lớn, quan trọng mà hai bên cần tuân thủ.

Tại sao Trung Quốc lại không đồng ý giải quyết đa phương vấn đề Biển Đông?

Là nước mạnh nhất trong các bên tranh chấp, Trung Quốc sẽ dễ dàng chiếm ưu thế trên bàn đàm phán song phương, buộc đối phương chấp nhận phương thức giải quyết của họ. Ý đồ của Trung Quốc là “chia để trị”, là “bẻ gẫy từng chiếc đũa”. Do vậy, Trung Quốc luôn khăng khăng giải quyết song phương, luôn chống lại việc “quốc tế hóa” Biển Đông. Trung Quốc sẽ có thể áp đặt sức mạnh của họ, buộc các nước này phải theo luật chơi của họ. Các nước ven Biển Đông cần hết sức tỉnh táo, không rơi vào “cái bẫy” của Trung Quốc, không để Trung Quốc biến Biển Đông thành một ao nhà của họ.
Theo Biendong.vn

Trong vòng đối thoại Mỹ - Việt lần thứ tư ở Washington, hai bên đã ra được thông cáo chung, theo đó, "các bất đồng trên Biển Đông phải được giải quyết thông qua một tiến trình ngoại giao, không sử dụng vũ lực". Như vậy, có thể nói, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ của Mỹ.

Còn tại Bắc Kinh, ngày hôm qua, đại diện Việt Nam và Trung Quốc cũng đưa ra cam kết "giải quyết hòa bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị". Theo giới phân tích, trước mắt, tuyên bố này có thể góp phần làm giảm những lo ngại về một cuộc xung đột vũ trang mà Việt Nam không thể đương đầu được với Trung Quốc. Thế nhưng, điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam chấp nhận đàm phán song phương, một phương thức mà Trung Quốc luôn luôn chủ trương để khai thác thế mạnh nước lớn.

Từ Sydney, nhà báo Lưu Tuờng Quang phân tích

Theo RFI

Đối phó
Vấn đề Hoàng Sa là tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam và nên được giải quyết song phương giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận, hai bên nên thông qua cơ quan tài phán quốc tế tìm kiếm phán quyết trung gian (Indonesia và Malaysia đã từng đưa tranh tụng các đảo Ligitan và Sipadan ra Tòa án Công Lý Quốc Tế, hay như Malaysia và Singapore đã làm tương tự đối với các bất đồng tại đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Ledge và South Rock).

Tranh chấp với Trường Sa liên quan đến 5 nước 6 bên là Việt Nam, Brunei, Trung quốc, Malaysia, Philippine và Đài Loan là một tranh chấp đa phương. Khác biệt quan điểm giữa nhiều bên về tranh chấp này cần có cách giải quyết đa phương. Bàn đàm phán song phương không phải là cơ chế phù hợp để xử lý các khác biệt quan điểm giữa nhiều bên. Nếu chỉ giải quyết song phương, các bên khác sẽ không chấp nhận và sẽ không tạo ra giải pháp lâu dài, ổn định.

Trong bối cảnh, Mỹ đang ủng hộ mạnh mẽ một giải pháp đa phương ở Biển Đông, các nước liên quan đến tranh chấp Biển Đông cần tranh thủ cơ hội này thúc đẩy đàm phán đa phương giải quyết vấn đề Biển Đông. Trước hết cần thúc đẩy hình thành COC để có được cơ chế đa phương giải quyết vấn đề tranh chấp.

Theo ông David Brown( một nhà ngoại giao Mỹ đã nghỉ hưu. Ông Brown thường xuyên nghiên cứu và có nhiều bài viết về tình hình biển Đông và sông Mekong được đăng tải trên tờ Asia Times):

- Việt Nam đã đặt hy vọng của mình trong sự tham vấn đa phương phối hợp với ASEAN, thể hiện sự sẵn sàng giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh hải theo công ước về Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982.

Bất chấp những nỗ lực rất tốt của chủ tịch ASEAN hiện tại là Indonesia, đang có những nghi ngờ 10 quốc gia ASEAN có sẵn lòng để đứng lên đối trọng với Trung Quốc hay không? Theo quan điểm của tôi, nên dành thời gian xem xét và đàm phán một cách chân thành nhất giữa 5 nước có tranh chấp chủ quyền trực tiếp với Trung Quốc là Việt Nam, Phillippines, Brunei, Malaysia và Indonesia.

Nếu nhóm 5 này có thể sắp xếp và ra một tuyên bố chung về một quy tắc ứng xử, đó có thể coi là một xuất phát điểm hợp lý cho một cuộc đàm phán chung với Trung Quốc. Hội đàm với Trung Quốc nên nhấn mạnh đến quyền lợi chính đáng và lợi ích hợp pháp của Trung Quốc và sự tham gia vào sự phát triển của khu vực biển Đông.
/.
Xem thêm »

Việt-Trung đồng ý đàm phán để giải quyết tranh chấp biển Đông

BẮC KINH - Trong một tiến triển để giảm bớt căng thẳng, Trung Quốc và Việt Nam đã đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trên Biển Đông thông qua thương lượng.

Ủy viên nhà nước Đới Bỉnh Quốc đã gặp gỡ với đặc phái viên Việt Nam, Phó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, tại Bắc Kinh vào ngày thứ Bảy (25/06/11), theo một thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao ban hành ngày Chủ Nhật.

Cả hai nước đã nhất trí để đạt đến sự đồng thuận của lãnh đạo và có biện pháp hiệu quả để cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Hiệp định đã đạt được "để ngăn chặn lời nói và hành động làm bất lợi cho tình hữu nghị và tin cậy lẫn nhau giữa nhân dân hai nước".

"Sự phát triển lành mạnh và ổn định của quan hệ Trung-Việt phù hợp với lợi ích căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước và có lợi cho hòa bình và ổn định trong khu vực".

Cả hai nước cũng cam kết sẽ tăng tốc độ tham khảo ý kiến ​​đồng ý một thỏa thuận trên nguyên tắc cơ bản cần thiết để giải quyết tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và Việt Nam, và cam kết sẽ ký càng sớm càng tốt.

Quan hệ giữa hai nước đã bị căng thẳng trong tháng qua trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Cả hai nước tiến hành tập trận hải quân nhưng các nhà phân tích cho biết không quan tâm đến việc làm trầm trọng thêm tình hình.

Cuộc họp cho thấy rằng cả hai bên muốn "làm mát nhiệt độ - cool the temperature" và không muốn vấn đề Biển Đông xấu đi, theo Giáo sư Chu Hảo, một chuyên gia về Việt Nam học tại Viện Trung Quốc đương đại của quan hệ quốc tế.

"Hai nước chia sẻ mong muốn chung là phát triển nền kinh tế của họ và điều này đòi hỏi một môi trường ổn định. Căng thẳng tại biển Đông tác hại cả hai", ông (GS Chu Hảo) nói với tờ Chinadaily vào hôm Chủ nhật (26/06/11).

Đặc phái viên Việt Nam nói đây là "một khởi đầu" và các cuộc đàm có khả năng tiếp tục thuận lợi. "Tôi khá lạc quan", ông (GS Chu Hảo) nói.

Yang Baoyun, giáo sư nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Bắc Kinh, cho biết các tranh chấp về Biển Đông diễn ra " ở một mức độ", được phóng đại trong giới truyền thông.

Khả năng xung đột quân sự là còn xa (?), ông (GS Yang Baoyun) nói.

"Trong nước, Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn kinh tế, như lạm phát. Về mặt toàn cầu, nước Mỹ không hỗ trợ Việt Nam đi quá xa về vấn đề này", ông ( GS Yang Bao Yun)nói.

Cả Trung Quốc và Việt Nam nhấn mạnh việc thúc đẩy quan hệ Trung-Việt hợp tác theo tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt", tin cho biết.

Theo Chinadaily ngày 27/06/11.
Xem thêm »

Hải quân Ấn Độ sẽ hiện diện ở biển Đông Việt Nam

(26/06) Ấn Độ đã có những bước thăm dò đầu tiên trong việc hướng tới việc thiết lập một căn cứ hàng hải bền vững" ở Biển Đông Việt Nam, không xa Trung Quốc đại lục.
Với sự hợp tác và tăng cường của hải quân Ấn Độ và Việt Nam trong những ngày tới cho việc thiết lập sự hiện diện này, Việt Nam đã cho phép tàu chiến hải quân Ấn Độ để thả neo tại cảng Nha Trang ở miền Nam Việt Nam trong chuyến thăm thiện chí hải quân Ấn Độ, một nguồn tin chính phủ cũng được đặt đã xác nhận.

Các nguồn tin cũng cho biết, Hải quân Ấn Độ có lẽ là lực lượng duy nhất của Hải quân nước ngoài trong thời gian gần đây đã được trao đặc quyền này tại một cảng khác ở Vịnh Hạ Long, gần Hà Nội.

"Động thái này sẽ giúp cho Ấn Độ có một chìa khóa cho một sự hiện diện bền vững ở biển phía Nam Trung Hoa", theo một nguồn tin chính phủ.Điều này sẽ cho phép Ấn Độ đóng một vai trò lớn hơn trong chiến lược khu vực Đông Nam Á.

Các sĩ quan hải quân Việt Nam học hỏi kinh nghiệm vận hành tàu ngầm từ Ấn Độ - ảnh TTVNOL
Ấn Độ cũng tham gia vào việc thiết lập và cung cấp các cơ sở hải quân để đào tạo, xây dựng năng lực cho hải quân Việt Nam.Phó Đô đốc Nguyễn Văn Hiển, dự kiến ​​sẽ thăm New Delhi, Mumbai và Visakhapat-nam trong chuyến thăm bắt đầu từ thứ Hai đến chứng kiến ​​khả năng hải quân Ấn Độ.

"Ấn Độ cũng có thể cung cấp kinh nghiệm của mình trong việc lĩnh vực đóng tàu cho Việt Nam khi mà Hải quân Việt Nam hiện đang chỉ là một lực lượng hải quân nhỏ", theo nguồn tin chính phủ.

Sẽ không có gì để nghi ngờ rằng Trung Quốc sẽ theo dõi sát việc hợp tác hải quân giữa Ấn Độ-Việt Nam.

Cả Ấn Độ và Việt Nam đang cảnh giác với sự phát triển và khả năng quân sự của Trung Quốc. Cả hai nước cũng là các nạn nhân của sự xâm lược quân sự của Trung Quốc trong quá khứ.

Theo deccanchronicle.com

Tàu ngầm lớp Kilo Hải quân Việt Nam mua của Nga.

Xem thêm »

Việt Nam sẽ mua máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130

Theo dự báo TSAMTO trên thị trường thế giới thị trường máy bay huấn luyện TCB / UBS trong bốn năm tới (2010-2013) dự kiến sẽ tăng trưởng đáng kể cả về số lượng và các thông số chi phí cao hơn trong thời gian bốn năm trước đó (2006-2009). Năm 2006-2009, doanh số bán hàng của máy bay huấn luyện Yak-130TCB/UBS trị giá 2,515,000,000 đô la. Năm 2010-2013 số lượng bàn giao có thể là 383 máy bay lên tới 7,410,000,000 đô la.

Trong số các khách hàng tiềm năng mua máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130, theo Trung tâm Phân tích buôn bán vũ khí quốc tế TsAMTO (Nga), có:

Algeria (12-16 chiếc, lô thứ hai dùng để thay thế L-39, thời hạn chuyển giao dự kiến 2015-2025);
Belarus (6-12 chiếc, 2015-2020), Brazil (6-12 chiếc, 2015-2025);
Venezuela (12-18 chiếc, để thay thế К-8, 2030-2040);
Việt Nam (6-12 chiếc, lô thứ hai dùng để thay thế L-39, 2015-2025);
Ghana (6 chiếc, 2012-2018), Indonesia (16 chiếc, mở thầu, 2012-2013);
Jordanie (12-16 chiếc, 2011-2020);
Iran (12-16 chiếc, 2016-2020, khi bãi bỏ lệnh trừng phạt của Hội đồng Bảo an LHQ);
Yemen (6-12 chiếc, 2015-2025);
Kazakhstan (6-12 chiếc, 2011-2020);
Libya (6-12 chiếc, lô thứ hai, 2015-2025);
Malaysia (18-24 chiếc, để thay thế Hawk, 2025-2030);
Morocco (6-12 chiếc, 2025-2040);
Syria (24-36 chiếc, 2011-2020);
Sudan (6-12 chiếc, 2025-2030);
Peru (6 chiếc, 2020-2025);
Thái Lan (6-12 chiếc, để thay thế L-39, 2015-2030);
Ukraine (12-24 chiếc, 2020-2040).

Máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130 có thể mô phỏng các chiến thuật của các máy bay chiến đấu khác nhau. Nó có một giá treo ở giữa thân và các giá treo khác ở trên cánh để mang vũ khí, bình thường thì nó có 6 điểm treo vũ khí, nhưng khi cần thiết có thể tăng lên 8 giá treo với 2 điểm ở đầu cánh, tổng trọng tải vũ khí mà nó có thể mang là 3.000kg.

Máy bay có thể mang vũ khí, thùng nhiên liệu phụ, hệ thống do thám và hệ thống tác chiến điện tử cho chiến tranh điện tử bao gồm radar gây nhiễu và hệ thống đối phó hồng ngoại.

Một hệ điện tử hàng không có cấu trúc mở trên Yak-130 cho phép nó có thể sử dụng rộng rãi các vũ khí của phương Tây và tên lửa dẫn đường bao gồm AIM-9L Sidewinder, Magic 2 và AGM-65 Maverick.
Yak-130 còn có thể sử dụng tên lửa dẫn đường bằng laser Vikhr, tên lửa không đối không dẫn đường bằng hồng ngoại R-73 (tên hiệu NATO AA-11 Archer) và tên lửa không đối đất dẫn đường bằng laser Kh-25ML (NATO AS-10 Karen). Ngoài ra nó còn có thể mang bom dẫn đường KAB-500Kr.

Máy bay được trang bị với một khẩu pháo 30mm GSh-301 hoặc pháo GSh-23 được đặt dưới thân. Ngoài ra còn có thể mang rocket không điều khiển B-8M và B-18, 250 kg bom thường và 50 kg bom chùm.

Theo RIA Novosti, Vietnamdefence
Xem thêm »

Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2011

Nga giao chiến đấu cơ cho Việt Nam

Tin cho hay một công ty của Nga đã giao đợt đầu trong năm 2011 bốn chiến đấu cơ thế hệ mới Su-30MK2 cho không quân Việt Nam.

Báo Moscow Times dẫn lời ông Sergei Kornev, trưởng đoàn của công ty Rosoboronexport tại triển lãm hàng không Paris 2011, loan báo thông tin trên.

Đây là tập đoàn chuyên trách xuất nhập khẩu vũ khí của chính phủ Nga.

Hiện đoàn của Rosoboronexport đang tham dự Paris Air Show 2011 ở sân bay Le Bourget.

Ông Kornev cũng cho hay Việt Nam, cùng với Ấn Độ và Algeria, là khách hàng mua nhiều chiến đấu cơ đời mới nhất từ Nga.

Việt Nam đã ký hai hợp đồng mua tổng cộng 20 chiếc Sukhoi-30MK2. Tổng giá trị của hai hợp đồng này không được công bố, nhưng người ta ước tính lên tới một tỷ đôla.

Su-30MK2 là phiên bản nâng cấp của loại Su-27UB Flancker hai chỗ ngồi, có khả năng phóng tên lửa chống tàu, tiêu diệt mục tiêu mặt nước và mặt đất.

Việc giao hàng xem ra chậm hơn tiến độ.

Việt Nam này còn mua nhiều loại vũ khí, khí tài tối tân khác. Hợp đồng mua sáu chiếc tàu ngầm hạng Kilo trị giá nhiều tỷ đôla hiện cũng đang được thực hiện.

Việt Nam nói các trang thiết bị và vũ khí mới được mua nhằm nâng cấp năng lực quốc phòng "hoàn toàn với mục đích tự vệ", chứ không nhằm vào quốc gia nào.

Mới đây Nga cũng đã giao hai tàu chiến lớp Gepard 3.9 cho Việt Nam.

Quân đội Việt Nam đang trên đường hiện đại hóa, ngân sách quốc phòng mỗi năm đều được tăng lên.

Theo Sách trắng Quốc phòng Việt Nam mới công bố, ngân sách năm 2008 là 27.000 tỷ đồng (khoảng 1,5 tỷ đôla Mỹ), chiếm 1,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).


Video: Su-30MK2 Việt Nam đã nhận và luyện tập năm 2010

Xem thêm »

BẢN TUYÊN CÁO ĐẶC BIỆT


Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

— o0o —

TUYÊN CÁO



VỀ VIỆC NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC LIÊN TỤC CÓ NHỮNG HÀNH
ĐỘNG GÂY HẤN XÂM PHẠM NGHIÊM TRỌNG CHỦ QUYỀN VÀ TOÀN VẸN
LÃNH THỔ VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG.


Chúng tôi, những người đồng ký tên dưới đây

Nhận định rằng :

1. Trong quá trình lịch sử, Trung Quốc đã nhiều lần tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1974 chiếm Hòang Sa, năm 1979 xua quân đánh 9 tỉnh biên giới phía Bắc, tiếp sức cho bọn diệt chủng Pôn Pốt đánh vào các tỉnh Tây Nam Việt Nam, năm 1988 đánh chiếm đảo Đá chữ thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, cho đến nay mưu đồ lấn chiếm ngày càng tiếp diễn thô bạo hơn.

2. Mặc dù năm 1991, Việt Nam Trung Quốc đã ký Hiệp định Hòa Bình, tuyên bố láng giềng hữu nghị nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang ngược cho tàu ngăn cản, bắn giết ngư dân Việt Nam trong cuộc mưu sinh trên vùng biển của mình; bắt tàu đánh cá , phạt vạ, trấn lột, cướp bóc tài sản của ngư dân Việt Nam. Ngày 26 tháng 5 năm 2011, tàu hải giám Trung Quốc xông vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tấn công, cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Bình Minh, tiếp đến ngày 9 tháng 6 năm 2011, tàu Trung Quốc lại hung hãn xông vào cắt cáp tàu Viking đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, với ý đồ xấu xa là biến vùng đặc quyền kinh tế,vùng biển của Việt Nam thành vùng đang tranh chấp để thưc hiện cái gọi là gác bỏ tranh chấp để cùng nhau khai thác với ưu thế vượt trội của Trung Quốc; áp đặt thô bạo đường lưỡi bò 9 đoạn trên Biển Đông mà không có cơ sở lịch sử, pháp lý nào. Việc làm này đã ngăn cản tự do hàng hải, đang bị các nước lên tiếng phản đối. Các hành vi nêu trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng Luật Biển và Công ước về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 của Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc là thành viên Thường Trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, vi phạm tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và ASEAN đã ký năm 2002.

3. Mới đây Trung Quốc lại điều tàu chiến Hải tuần 31 qua Biển Đông, tổ chức tập trận để đe dọa Việt Nam, Philippines và các nước khác ở Đông Nam Á. Những hành động ngang ngược, phô trương lực lượng này đã tạo nên không khí căng thẳng, phá hoại hòa bình, ổn định và an ninh trong toàn khu vực Châu Á Thái Bình Dương và trên toàn thế giới, ngăn cản công cuộc xây dựng hòa bình của các nước trong khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương, trong đó có ASEAN và Việt Nam. Các hành vi nêu trên của Trung Quốc là trái ngược hoàn toàn với những gì mà Trung Quốc đã tuyên bố với thế giới và với xu thế phát triển hòa bình, tiến bộ của thời đại.

4. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 08/06/2011 tại Nha Trang: “ Tiếp tục khẳng định mạnh mẽ và thể hiện ý chí quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển và hải đảo của Tổ Quốc”, đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam.

Chúng tôi long trọng tuyên bố:

1.Cực lực lên án và tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước: Nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn nhằm xâm chiếm Biển Đông với tuyên bố chủ quyền đường lưỡi bò 9 đoạn và Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam; bắt bớ cướp bóc, phá hoại tàu bè của ngư dân Việt Nam; cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam với ý đồ biến vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của Việt Nam thành vùng tranh chấp để Trung Quốc hưởng lợi; diễn tập quân sự, điều tàu chiến lớn đến Biển Đông, đe dọa hòa bình an ninh trong khu vực.

2. Chúng tôi ủng hộ những phát biểu mạnh mẽ, hợp lòng dân của những nhà lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam và rất mong các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị và xã hội, các ban ngành đoàn thể Việt Nam nhanh chóng có những biện pháp tích cực và hữu hiệu hơn nữa nhằm bảo vệ ngư dân, bảo vệ các tàu thăm dò dầu khí. Chúng ta yêu chuộng hòa bình, nhưng kiên quyết không để một tấc đất, một vùng biển, đảo nào lọt vào tay bất cứ một nước ngoài nào như Chủ tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết nhiều lần phát biểu khẳng định.
.
3. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy bên cạnh biện pháp chính trị, quân sự và ngoại giao, biện pháp đấu tranh hiệu quả nhất vẫn là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong nước cũng như ở ngoài nước nhằm chống lại những hành động ngang ngược gây hấn, xăm lấn của nhà cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam mà bao đời ông cha đã gầy dựng, gìn giữ.

4. Chúng tôi nghĩ rằng không vì lý do gì ngăn chặn những hành động yêu nước của nhân dân bao gồm các cuộc biểu tình, mít tinh ôn hòa, trật tự của thanh niên, sinh viên học sinh và đồng bào Việt Nam trên toàn quốc.

Trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, nối tiếp biết bao thế hệ cha ông chúng ta đã khắc sâu lời thề: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.Dựa vào sức mạnh của nhân dân là chính, nhất định chúng ta sẽ chiến thắng. Chính nhờ vậy mà Tổ quốc Việt Nam chúng ta đã trường tồn và độc lập đến ngày hôm nay.


Làm tại TP.HCM, ngày 25 tháng 06 năm 2011
Đồng ký tên


01
Ô.NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU
-     Nhà nghiên cứu sử địa học, chuyên gia về Biển Đông



02
Ô. NGUYỄN TRỌNG VĨNH
-         Thiếu tướng, lão thành Cách Mạng
-         Nguyên ủy viên Trung Ương Đảng Khóa 3
-         Nguyên Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền Việt Nam tại Trung Quốc



03
Ô. NGUYỄN HUỆ CHI
-     Giáo sư Văn học, người sáng lập trang mạng Bauxite
      Việt Nam



04
Ô. NGUYỄN QUANG A
-         Tiến sĩ



05
Ô. PHẠM TOÀN
-         Nhà giáo, người sáng lập trang mạng  Bauxite Việt Nam

06
Ô. CHU HẢO
-         Giáo sư Tiến sĩ  Nguyên Thứ Trưởng
      Bộ Khoa Học Công Nghệ

07
Ô. NGUYỄN KHẮC MAI
-         Nguyên vụ trưởng Ban Dân Vận Trung Ương
-         Gíam Đốc Trung Tâm Minh Triết

08
Ô. PHAN ĐÌNH DIỆU
-         Giáo sư Tiến sĩ
-         Ủy viên Đoàn Chủ Tịch ủy ban Trung ương MTTQ VN

09
Bà TRẦN THỊ BĂNG THANH
-         Phó GSTS , Viện Văn học Việt Nam

10
Ô. NGUYÊN NGỌC
-         Nhà văn
-         Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Đại Học Phan Chu Trinh – tỉnh Quảng Nam

11
Ô. HỒ NGỌC NHUẬN
-         Nhà báo
-         Nguyên Gíam Đốc chính trị nhật báo Tin Sáng
-         Uỷ viên TW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
-         Phó chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc TP.HCM

12
Ô. LỮ PHƯƠNG
-         Viết văn
-         Nguyên thứ trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin Chính Phủ CM Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN

13
Ô. NGUYỄN XUÂN DIỆN
-         Tiến sĩ, Phó GĐ Thư viện Viện Nghiên cứu  Hán Nôm VN
14
Ni sư trưởng NGOẠT LIÊN
-         Trụ trì tịnh xá Ngọc Phương
-         Ủy viên Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo VN
-         Ủy viên Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc VN

15
Ô. HUỲNH TẤN MẪM
-         Bác sĩ  Đại biểu Quốc Hội Khóa 6
-         Nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên SG trước 1975

16
     
Ô. TRẦN QUỐC THUẬN
-          Luật sư , Phó Ban Thường Trực Ban Liên Lạc Tù Chính Trị Việt Nam
-         Nguyên Phó chủ nhiệm thường trực văn phòng Quốc Hội Việt Nam .

17

18
Ô. TƯƠNG LAI

Ô. LÊ HIẾU ĐẰNG
-         Gíao sư, Email: tnglai@gmail.com, DĐ: 0918739367

-         Nguyên phó Tổng Thư Ký Uỷ Ban TW Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ & hòa bình Việt Nam
-          Nguyên phó chủ tịch UB MTTQ TP.HCM
-         Đại biểu HĐND TP.HCM khóa 4&5

19
Ô. LÊ CÔNG GIÀU
-         Cựu tù chính trị trước 1975
-         Nguyên Phó Bí Thư thường trực Thành Đoàn TP.HCM
-         Nguyên GĐ Trung Tâm Xúc Tiến Thương Mại & Đầu tư TP.HCM.
-         Nguyên Phó Tổng GĐ Saigontourist

20
Ô. ANDRÉ MENRAS- HỒ CƯƠNG QUYẾT

-         Cựu tù chính trị tại Việt Nam trước 1975
-         Nhà giáo về hưu

21
Ô. PHẠM VĂN ĐỈNH
-         Tiến sĩ quốc gia Pháp, chuyên ngành Vật Lí Khí Quyển
-         Chủ tịch hội văn hóa Trịnh Công Sơn
-         Thành viên hội đồng quản trị hội “Maison Vietnam” – Pháp

22
Ô. HÀ DƯƠNG TƯỜNG
-         Nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne (UTC,France)



23
Ô. NGUYỄN NGỌC GIAO
-    Tiến sĩ Nguyên Giáo sư Đai học Paris 7

24
Ô. HÀ SỸ PHU
-    Tiến sĩ Sinh Học ( Đà Lạt )

25
Ô. TRẦN VĂN LONG
-    Cựu tù Côn Đảo trước 1975,
-    Nguyên Phó Bí thư Thành Đoàn Tp.HCM
-    Nguyên Tổng thư kí UB Vận động cải thiện chế độ lao tù                    -    MNVN  (trước 1975), Nguyên phó Tổng GĐ Saigontourist

26
Ô. NGÔ ĐỨC THỌ
-    Phó GS TS ( Hà Nội ), nguyên cán bộ Viện Hán Nôm

27
Ô. HUỲNH NHẬT HẢI
-    Nguyên Phó Chủ tịch UBND Thành Phố Đà Lạt

28
Ô. HUỲNH NHẬT TẤN
-         Nguyên giám đốc Trường Đảng Tỉnh Lâm Đồng



29

30
Ô. BÙI MINH QUỐC

Ô. TIÊU DAO BẢO CỰ
-         Nhà thơ, Nguyên chủ tịch Hội Văn Nghệ Lâm Đồng

-         Nhà văn tự do ( Đà Lạt )

31
Ô. MAI THÁI LĨNH
-         Nguyên phó chủ tịch HĐND Thành phố Đà Lạt

32
Ô. NGUYỄN QUANG NHÀN
-         Cán bộ công đoàn Đà Lạt ( đã nghỉ hưu )

33
Bà TRẦN THỊ THANH BIÊN
-         Nhà giáo ( đã nghỉ hưu )

34
Ô. KHA LƯƠNG NGÃI
-         Nguyên Phó Tổng Biên Tập báo Sài Gòn Gỉai Phóng thuộc Thành Uỷ TP.HCM

35

Ô. HỒ TỊNH TÌNH
( HỒ THANH)
-         Nguyên hiệu trưởng trường Phát Thanh Truyền Hình TW 2



36
Ô. HUỲNH KIM BÁU
-         Nguyên Tổng Thư Ký Hội Trí Thức Yêu Nước TP.HCM (nay là  Liên Hiệp các hội Khoa Học Kỹ Thuật TP.HCM )
37
Luật sư TRỊNH ĐÌNH BAN
-         Nguyên Chủ Tịch Phong Trào Tự Trị Đại Học Miền Nam Việt Nam
-         Nguyên thành viên Tổ Tư Vấn Chính Phủ nước CHXH Chủ Nghĩa Việt Nam
-         Nguyên phó chủ tịch Hội Luật Gia TP.HCM
-         Nguyên Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân TPHCM Khóa 3

38
Ô.NGUYỄN XUÂN LẬP



-         Nguyên chủ tịch đoàn sinh viên Phật Tử Sài Gòn
-         Nguyên Gíam Đốc Cty Dược TP.HCM ( SAPHARCO)
-         Nguyên chủ tịch Hội Dược Học TP.HCM

39
Ni sư TUẤN LIÊN
-         Phong trào đấu tranh trước 1975

40
Ni sư trưởng LIÊN HÀN LIÊN
-         Phong trào đấu tranh trước 1975

41
Thích nữ TÍN LIÊN
-         Uỷ viên TW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam

42
Ni sư THÍCH NỮ MINH LIÊN
-         Uỷ viên Uỷ Ban Mặt Trận Tổ Quốc , quận Gò Vấp

43
Ni sư Thích nữ LỆ LIÊN
-         Phong trào đấu tranh trước 1975

44
Thích nữ HÒA LIÊN
-         Uỷ viên Hội Liên Hiệp Phụ Nữ , quận Gò Vấp

45
Thích nữ VIÊN LIÊN
-         Tịnh xá Ngọc Phương

46
Ô.HẠ ĐÌNH NGUYÊN
-         Nguyên Chủ Tịch Uỷ Ban Đấu Tranh thuộc Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn ( trước 1975)

47
Ô.PHAN LONG CÔN
-         Nguyên Tổng Thư Ký Tổng Hội Sinh Viên Liên Viện Miền Nam VN (1967)
-         Nguyên Chủ tịch Liên Hiệp Các Tổ Chức Hữu Nghị Phú Yên

48
Bà VÕ THỊ BẠCH TUYẾT
-         Nguyên Gíam Đốc Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội TP.HCM

49
Ô. NGUYỄN TRỌNG TẠO
-         Nhà thơ, nhạc sĩ

50
Ô. TRẦN NHƯƠNG
-         Nhà thơ, nhạc sĩ

51
Ô. LÝ TRỰC DŨNG
-         Họa sĩ

52

Ô. TRỊNH QUANG VŨ

-         Họa sĩ

53
Ô. MAI THANH HẢI
-         Blogger

54
Ô. HÀ THÚC HUY
-         Tiến sĩ Hóa học Đại học KHTN

55
Ô. PHẠM QUỐC VỸ
-         Bác sĩ, Nguyên ban đại diện SV Y Khoa Sài Gòn.
-         Nguyên trưởng phòng y tế LLTNXP

56
Ô. PHAN THANH HUÂN
-         Luật sư

57
Ô. THÁI VĨNH TRINH
-         Cựu tù Côn Đảo

58
Ô. VƯƠNG ĐÌNH CHỮ
-         CLB Phaolo NGUYỄN VĂN BÌNH

59
Ô. ĐÌNH VƯỢNG
-         CLB Phaolo NGUYỄN VĂN BÌNH

60
Ô. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
-         Thanh niên Hà Nội

61
Bà HUỲNH THỊ KIM TUYẾN
-         Nguyên Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Gíao Yêu Nước TP.HCM
-         Nguyên Cán Bộ Ban Dân Vận Thành Uỷ

62
Ô. ĐẶNG NGỌC LỆ
-          Phó giáo sư tiến sĩ , Chủ Tịch Hội Ngôn Ngữ Học TPHCM
-         Trưởng Khoa Đông Phương Học – Trường Đại Học Văn Hiến

63
Ô. HUỲNH SƠN PHƯỚC
-         Nguyên Phó Tổng Biên Tập Báo TUỔI TRẺ TP.HCM

64
Ô. NGUYỄN QUỐC THÁI
-         Nhà Báo Nguyên Tổng Thư Kí báo Công Nghiệp

65
Ô. TRẦN MINH ĐỨC
-         Nguyên Phó Tổng Biên Tập Báo Tuổi Trẻ TP.HCM
-         Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị CTY CỔ PHẦN THẾ KỈ 21

66
Ô. CAO LẬP
-         Cựu tù Chính trị Côn Đảo trước 1975
-          Nguyên Gíam Đốc Làng Du Lịch Bình Quới – Saigontourist

67
Ô. BÙI TIẾN AN
-         Huynh trưởng hướng đạo
-         Cựu tù Chính trị Côn Đảo trước 1975

68
Ô. NGUYỄN TUẤN KIỆT
-         Nhạc sĩ
-         Cựu tù Chính trị Côn Đảo trước 1975

69
Ô. ĐỖ TRUNG QUÂN
-         Nhà thơ

70
    
Ô. NGUYÊN HẠO
-         Họa sĩ

71

Ô. VŨ QUANG HÙNG
-         Cựu tù Chính trị Côn Đảo trước 1975
-         Nguyên Phó Tổng Biên Tập Báo Công An TPHCM

72
Ô. ĐỖ HỮU BÚT
-         Nguyên trưởng Ban Tuyên Huấn Đảng Uỷ Sinh Viên Sài gòn Gia Định
-         Cựu sinh viên phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn Gia Định

73
Ô. TRẦN HƯNG ĐOÀN
-         Nguyên Tổng Gíam Đốc cty SAVIMEX

74
Bà TRẦN THỊ KHÁNH
-         Biên tập viên nhà xuất bản Trẻ TP.HCM



75
Ô. NGUYỄN TẤN Á
-         Nguyên quyền trưởng ty điện lực Phú Yên (trước 1975)
-         Nguyên Tổng Thư Kí Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn 1964

76
Bà HUỲNH QUANG THƯ
-         Nguyên Tổng Thư Kí Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn 1968

77
Ô. THIỀU HOÀNH CHÍ
-         Bác sĩ

78
Ô. HUỲNH NGỌC CƯƠNG
-         Dược sĩ
-         Gíam đốc công ty Dược Phú Thọ

79
Bà TRƯƠNG HỒNG LIÊN
-         Nguyên cán bộ Thành Đoàn TP.HCM

80
Bà  HUỲNH MINH NGUYỆT
-         Cựu sinh viên phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn Gia Định

81
Bà NGUYỄN THỊ XUÂN DUNG
-         Cựu sinh viên phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn Gia Định

82
Bà TẠ THỊ TƯƠI
-         Cựu sinh viên phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh
      Sài Gòn Gia Định
83
Bà NGUYỄN THỊ TRUYỀN
-         Cựu sinh viên phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh
     Sài Gòn Gia Định

84
Ô. HỒ HIẾU
-         Nguyên chánh Văn phòng ban Dân vận Thành Ùy TP.HCM

85
Ô. LÊ THÂN 
-         Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Cựu tù Côn đảo trước 1975
86
Ô. HOÀNG TIẾN CƯỜNG
-         Hà Nội

87

Bà CAO THỊ VŨ HƯƠNG

-        Hà Nội

88

Ô. NGUYỄN QUANG THẠCH

-         Sáng lập Tủ sách dòng họ ở nông thôn

89

Ô. LÊ TUẤN ANH

-         Hà Nội

90

Bà ĐẶNG BÍCH PHƯƠNG

-         Hà Nội

91

Bà TRẦN THANH VÂN

-         KTS Cảnh quan, Hà Nội

92

Ô. PHẠM VIỆT CƯỜNG

-         Hà Nội

93

Ô. ĐỖ MINH TUẤN

-         Nhà thơ, Đạo diễn, Hà Nội

94

Ô. PHAN HỒNG GIANG

-    Tiến sĩ khoa học, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

95

Bà NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT

-         Nhà thơ, nhà biên kịch điện ảnh, nguyên Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh, hiện là Phó Chủ tịch thường trực Hội Điện ảnh Việt Nam











Mời bạn đọc yêu nước liên hệ ký tên

Nguyễn Văn Hải (Hải Bình), nguyên Trưởng Phân xã TTXVN tại tỉnh Tiền Giang

Kỹ sư Dương Quang Minh, thường trú tại 10 Tú Xương, phường Tây Lộc, Tp Huế
Xem thêm »