Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011

Trung Quốc có thể mua cả thế giới với hơn 3.000 tỷ USD ?

Với khoản dự trữ ngoại tệ khổng lồ của mình, Trung Quốc có thể mua rất nhiều thứ khác chứ không chỉ là trái phiếu chính phủ Mỹ.
Ngày 14/4, ngân hàng trung ương Trung Quốc công bố số liệu mới cho thấy dự trữ ngoại tệ tính tới cuối tháng 3 đạt trên 3.000 tỷ USD.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc có rất nhiều tiền nhưng không có nhiều trí tưởng tượng khi chỉ dành tiền để mua chứng khoán chính phủ Mỹ. Dù việc đó mang tới thêm USD nhưng đống USD đó sẽ giá trị bao nhiêu nếu nước Mỹ không chống nổi lạm phát hay trượt giá.

Vậy Trung Quốc có thể làm gì với số tiền mình đang có? Thay vì giữ USD, Trung Quốc có thể chọn đồng euro. Trung Quốc có thể mua tất cả số nợ công khổng lồ của Tây Ban Nha, Ireland, Bồ Đào Nha và Hy Lạp, giải quyết khủng hoảng nợ công tại khu vực đồng euro trong nháy mắt. Và vẫn còn tới gần 1 nửa khoản dự trữ của mình.

Cách khác là từ bỏ hoàn toàn số nợ và mua chứng khoán. Trung Quốc có thể nuốt gọn Apple, Microsoft, IBM và Google với không tới 1.000 tỷ USD. Hay nó cũng có thể theo chân các đại gia và ông trùm lớn mua các câu lạc bộ bóng đá Anh. Theo tạp chí Forbes, giá trị nhượng quyền thương mại của 50 câu lạc bộ thể thao lớn nhất thế giới năm ngoái chỉ có giá 50,4 tỷ USD, không đến 2% dự trữ Trung Quốc.

Một lĩnh vực khác mà những người giàu nhất thế giới ưa thích đổ tiền vào là bất động sản. Có thể Trung Quốc nên mua một số địa chỉ đặc biệt tại Manhattan. Thậm chí là cả Manhattan? Giá trị bất động sản tính thuế của hòn đảo này chỉ là 287 tỷ USD, theo chính quyền thành phố New York. Các bất động sản tại thủ đô Washington D.C Mỹ cũng chỉ khoảng 232 tỷ USD. Trung Quốc đã là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, tại sao không trở thành chủ đất?

Trung Quốc cũng có thể làm giảm mối lo ngại về năng lượng, thực phẩm và an ninh quân sự. 3.000 tỷ USD sẽ mua được khoảng 88% nguồn cung dầu toàn thế giới. 1.870 tỷ USD (giá năm 2009) đủ để mua tất cả đất nông nghiệp (và trang trại) tại lục địa Mỹ.
Về lý thuyết, Trung Quốc cũng có thể mua toàn bộ Bộ Quốc phòng của Mỹ, với trị giá tài sản chỉ 1.900 tỷ USD, theo số liệu năm 2010. Phần lớn trong số đó là đất đai, các tòa nhà và các khoản đầu tư; súng, xe tăng và các loại vũ khí khác trị giá chỉ 423,7 tỷ USD.

Các số liệu tính toán này không chỉ để thấy khoản dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc lớn tới mức nào mà còn để thấy những khó khăn to lớn phải đối mặt để đa dạng chúng.

Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com
New posts:



Share
Xem thêm »

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2011

Trung Quốc điều chỉnh chính sách ở Biển Đông

Rất nhiều nhà phân tích, bao gồm cả các học giả tham gia hội thảo về Biển Đông được tổ chức tại Hà Nội (25 - 27/11/2009) và thành phố Hồ Chí Minh (10 - 12/11/2010) cho rằng Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược hung hăng mới ở Biển Đông.
( Trong ảnh: Mô hình tàu sân bay mới của Trung Quốc - ảnh:Sinaimg)

Tác giả: GS.STEIN TONNESSON, VIỆN NGHIÊN CỨU HÒA BÌNH,OSLO
Bài đã được xuất bản.: 15/04/2011 06:00 GMT+7

( Nghiencuubiendong.vn ) Những sự kiện diễn ra trong suốt năm 2010 chính là minh chứng cho thất bại của chính sách Trung Quốc ở Biển Đông trong việc phục vụ lợi ích quốc gia của mình. Những hành động nhằm theo đuổi chính sách đó đã xói mòn những nỗ lực ngoại giao trong suốt một thập kỷ qua nhằm xây dựng lòng tin ở Đông Nam Á, và tạo điều kiện cho Mỹ quay trở lại khu vực này như một đối trọng với Trung Quốc. Việt Nam cũng đang lôi kéo Nga trở lại với vai trò là một đối tác hải quân và là quốc gia cung cấp vũ khí. Việt Nam đang nỗ lực quốc tế hóa những tranh luận xung quanh vấn đề an ninh khu vực và đã tận dụng vị trí chủ tịch ASEAN nhằm thực hiện những nỗ lực trên.

Tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) tại Hà Nội tháng 10/2010 vừa qua, các ngoại trưởng Mỹ và Nga được tiếp đón như những vị khách đặc biệt. Từ bây giờ trở đi, Mỹ và Nga sẽ là thành viên của EAS. Chính sách ngoại giao cứng rắn mới của Việt Nam cũng được minh chứng trong hai hội thảo về Biển Đông được tổ chức tại Hà Nội (25 - 27/11/2009) và thành phố Hồ Chí Minh (10 - 12/11/2010). Bài viết này tổng hợp báo cáo tham luận từ hai hội thảo này, diễn đàn nơi các học giả Trung Quốc, Đài Loan và Đông Nam Á gặp gỡ với các đồng nghiệp từ các nước khác và đã có những trao đổi rất thẳng thắn.

Những quan niệm sai lầm chung

Rất nhiều nhà phân tích, bao gồm cả các học giả tham gia hội thảo trên cho rằng Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược hung hăng mới ở Biển Đông. Những học giả này lập luận rằng điều này phản ánh sức mạnh hải quân mới được tăng cường của Trung Quốc. Những bằng chứng được đưa ra bao gồm một loạt các sự kiện diễn ra gần đây.

Vào tháng 3/2009, các tàu chiến của Trung Quốc đã đe dọa tàu Hải quân Mỹ Impeccable, một tàu khảo sát thủy văn biển được triển khai 75 dặm phía Nam đảo Hải Nam, nơi Trung Quốc đang xây dựng căn cứ hải quân hiện đại. Impeccable buộc phải rút lui nhưng đã trở lại ngay ngày hôm sau cùng với tàu quân sự hộ tống. Không lâu sau, vào tháng 5/2009, Trung Quốc đã đính kèm bản sao bản đồ gây tranh cãi có in hình đường chín đoạn vào công hàm ngoại giao chính thức lên Ủy ban Liên hợp quốc về Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) nhằm phản đối một tính toán chung của Ma-lai-xia và Việt Nam về chiều rộng thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nguồn: Ủy ban Địa hình Quảng Đông, Các tài liệu được sưu tập về địa hình các đảo Biển Đông (Quảng Châu: Nhà xuất bản Bản đồ Quảng Đông, 1987) (bằng tiếng Trung), 45 - 46. In lại trong tập san mới nhất của tạp chí Ocean Development and International Law (ODIL) 2010, 41 (3): 208
Vào năm 1948, Cộng hòa Trung Quốc (ROC) đã xuất bản tấm bản đồ Biển Đông này với 11 nét đứt tạo thành đường chữ U. Ngay sau khi thành lập năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) bắt đầu sử dụng chính tấm bản đồ đó. Trong khi ROC (Đài Loan -ND) tiếp tục sử dụng bản đồ này, PRC đã bỏ đi 2 nét đứt đoạn ở Vịnh Bắc Bộ sau năm 1953, do đó, tạo thành bản đồ của PRC với đường chín đoạn. Ý nghĩa của tấm bản đồ này đến nay vẫn chưa được làm rõ nhưng có vẻ nhằm thể hiện ý định của Trung Quốc muốn yêu sách toàn bộ các đảo nằm trong đường đó, và các vùng biển có thể có được từ các đảo nêu trên dựa trên cơ sở phát hiện và kiểm soát hiệu quả theo Luật biển.

Tấm bản đồ này mang lại ấn tượng rằng Trung Quốc yêu sách hầu như toàn bộ Biển Đông là của mình.[1] Cùng lúc đó, Trung Quốc gây áp lực cho các công ty dầu khí quốc tế chấm dứt khai thác dầu và khí đốt trên thềm lục địa Việt Nam. Trong 2 năm 2009 và 2010, Trung Quốc đã tấn công một số lượng lớn tàu cá Việt Nam ở những khu vực đang tranh chấp, tịch thu hải sản đánh bắt được và bắt giam ngư dân. Trong buổi gặp với hai đại diện của Mỹ vào tháng 3/2010, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc[2] đã tuyên bố rằng Biển Đông là một trong những "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc (hexin liyi) - cùng với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương.

Từ tháng 4 - 10/2010, Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAN) đã tiến hành 3 cuộc tập trận ở Biển Đông với sự tham gia của các tàu chiến từ các Hạm đội Đông Hải và Bắc Hải. Ấn tượng rằng Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược hung hăng mới được khẳng định bởi các động thái ở những nơi khác, đáng lưu ý là sự leo thang nhanh chóng trong xung đột của Trung Quốc và Nhật Bản vào tháng 9/2010 xung quanh việc Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá của Trung Quốc gần khu vực đảo Điếu Ngư/Senkaku đang tranh chấp giữa hai nước ở phía Đông Đài Loan.

Một số học giả tham gia hội thảo tháng 11/2010 tại thành phố Hồ Chí Minh mà diễn ra cùng lúc với Hội nghị Thượng đỉnh G20 ở Seoul, Hàn Quốc đã đưa ra các cách giải thích rõ nét hơn về các sự kiện nêu trên. Các học giả Trung Quốc xem các hành động của Trung Quốc như là phản ứng trước các hành động khiêu khích của các quốc gia khác và không cho rằng các phản ứng này được phối hợp trước. Thay vào đó, họ tin rằng các nhà hoạch định chính sách khác nhau đơn giản áp dụng các chính sách đã được định trước. Tàu hải quân Mỹ Impeccable thực hiện các hoạt động bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Trung Quốc mà từ lâu nay Trung Quốc cho rằng vi phạm các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS).

Hoạt động khảo sát khoa học là vi phạm luật biển nếu các hoạt động này được thực hiện vì mục đích thương mại bên trong vùng EEZ của một quốc gia khác mà không được sự cho phép của quốc gia đó. Trung Quốc đã lập luận rằng nguyên tắc này được áp dụng cho cả các khảo sát thủy văn học hải quân và do thám hàng không. Đó là lý do vì sao mà Trung Quốc dùng các biện pháp cứng rắn vào đầu năm 2001 để ngăn chặn các hoạt động tình báo của Mỹ cả trên biển và trên không gần đảo Hải Nam.

Vì vậy, theo quan điểm của Trung Quốc, các hành động đối với tàu hải quân Mỹ Impeccable không phản ánh một sự thay đổi trong chính sách. Khi Trung Quốc đệ trình phản đối lên CLCS vào tháng 5/2009, Trung Quốc thực sự đã thực hiện hai bước đi theo hướng làm cho các yêu sách chủ quyền của mình phù hợp với luật quốc tế. Bằng việc đính kèm bản đồ đường chín đoạn, Trung Quốc đã biến tấm bản đồ này thành một tài liệu chính thức, do đó tạo điều kiện cho các chuyên gia luật pháp xem xét. Trong công hàm phản đối của mình, Trung Quốc cũng tuyên bố rằng Trung Quốc yêu sách các đảo trong đường chín đoạn, cùng với các vùng biển "kế cận" hay "liên quan" của các đảo đó.

Mặc dù đây không phải là các thuật ngữ được sử dụng trong UNCLOS, ý nghĩa của các thuật ngữ này chỉ ra rằng Trung Quốc sẽ phải xác định các yêu sách của mình đối với các vùng biển dựa trên khoảng cách đến các đảo của Trung Quốc. Đây thực ra là một sự thay đổi tiến đến một chính sách ít bành trướng hơn. Phát biểu "lợi ích cốt lõi" được cho là thiếu sáng suốt được đưa ra trong một cuộc họp kín giữa các đại diện của Trung Quốc và Mỹ và sau đó bị tiết lộ cho báo chí Nhật Bản và Mỹ. Phát biểu này diễn ra trong bối cảnh trước đó có một tuyên bố chung vào tháng 11/2009 nhân chuyến thăm của Tổng thống Obama đến Bắc Kinh, trong đó hai bên nhất trí "tôn trọng lợi ích cốt lõi của nhau".[3] Trung Quốc đã thực hiện sáng kiến xác định "lợi ích cốt lõi và các quan ngại chính" của mỗi bên trong các cuộc hội đàm song phương với một vài nước.

Mỹ đã do dự khi xác định "lợi ích cốt lõi" của mình và có vẻ sẵn sàng hơn trong việc xác định lợi ích chung hay lợi ích sẻ chia. Mặc dù chúng ta phải cho rằng phát biểu về "lợi ích cốt lõi" ở Biển Đông vào tháng 3/2010 đã được làm rõ trước đó ở cấp cao nhất, không có vẻ như đây là một tuyên bố công khai. Ý nghĩa thực sự của tuyên bố này cũng không rõ ràng, bởi vì có rất nhiều khu vực của Biển Đông không hề nằm trong đường chín đoạn trên bản đồ được đính kèm vào công hàm phản đối gửi lên CLSC vào tháng 5/2009. Chưa hề có một tuyên bố chính thức nào từ phía Trung Quốc được ghi chép lại rằng Biển Đông đã được nâng lên thành "lợi ích cốt lõi' 4]

Đối mặt với rất nhiều phản ứng tiêu cực từ tuyên bố trên, Trung Quốc đã rút lui.[5] Gần đây hơn, Trung Quốc đã mềm mỏng hơn trong cách tiếp cận với Việt Nam. Một nhà nghiên cứu từ Học viện Ngoại giao Việt Nam tại hội thảo tháng 11/2010 đã cho biết rằng trong những tháng gần đây, không hề có báo cáo nào về việc Trung Quốc cản trở ngư dân Việt Nam và không có dấu hiệu cho thấy áp lực đối với các công ty dầu khí. Điều còn lại trong chiến lược cứng rắn mới của Trung Quốc đó là các cuộc tập trận hải quân. Trung Quốc giải thích các hoạt động đó hoặc là "bình thường" hoặc là các phản ứng đối với các cuộc tập trận mà Mỹ và các đồng minh tiến hành. Tóm lại, dường như Trung Quốc không hề có một chiến lược mới, mà có vẻ như nhiều động thái thiếu sáng suốt, không nhịp nhàng và đôi khi là ngạo mạn đã hủy hoại vị trí của Trung Quốc ở khu vực.

Các nhà phân tích Trung Quốc có xu hướng nghĩ rằng Mỹ đang thay đổi chiến lược của mình. Cho đến gần đây, Washington vẫn luôn nhấn mạnh rằng các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông không phải là mối bận tâm của Mỹ, tuy nhiên tại hội nghị cấp cao Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tháng 7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đột nhiên đề nghị hỗ trợ tiến trình giải quyết xung đột. Bước đi này rõ ràng đã được phối hợp từ trước với một số chính phủ các nước Đông Nam Á, nhưng chắc chắn không phải với Trung Quốc.

Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cũng đã có một loạt các tuyên bố vào năm 2010 dường như thể hiện một chiến lược mới kiên quyết hơn ở Biển Đông. Điều này xảy ra cùng lúc với sự gia tăng hiện diện hải quân của Mỹ - những lần cập cảng và các cuộc tập trận hải quân được tiến hành, mặc dù hầu hết ở khu vực xa hơn về phía Đông. Trung Quốc cho rằng điều này có liên hệ với một tuyên bố của Mỹ rằng Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật do đó sẽ bao hàm cả những vùng lãnh thổ đang tranh chấp như quần đảo Điếu Ngư/Senkaku.

Một lần nữa, đây là một quan niệm sai lầm. Chiến lược của Mỹ ở khu vực là nhất quán. Nhắc đến các tuyên bố của Mỹ năm 1995, khi mà Phi-lip-pin phát hiện Trung Quốc đang chiếm đóng đảo Vành Khăn nằm trên thềm lục địa của Phi-lip-pin, những phát biểu được đưa ra năm 2010 cũng tương tự như thế.[6] Mỹ có lợi ích quốc gia vô cùng quan trọng mà Mỹ luôn coi trọng: tự do hàng hải không bị cản trở. Mỹ không chấp nhận bất kỳ sự phân biệt nào giữa hàng hải thương mại và quân sự, và không chấp nhận hay tôn trọng luật quốc gia nào mà yêu cầu các tàu hải quân phải xin phép trước nếu các tàu này muốn sử dụng quyền qua lại vô hại qua lãnh hải của một quốc gia (trong 12 hải lý). Hơn nữa, trong vùng biển chung ngoài vùng lãnh hải, Mỹ kiên quyết đòi quyền thực hiện các hoạt động hải quân, tập trận, khảo sát tình báo và các hoạt động khác.

Cần phải nhấn mạnh rằng khái niệm "vùng biển chung" theo cách nói của Mỹ bao gồm cả vùng EEZ của các quốc gia khác. Với bất kỳ mục đích nào ngoài mục đích khai thác kinh tế các nguồn tài nguyên, các quốc gia ven biển không có đặc quyền trong vùng EEZ của mình. Đó là lý do vì sao Mỹ kiên quyết thực hiện các quyền của mình trong các vụ việc liên quan đến sự cố máy bay do thám năm 2001 và các hoạt động khảo sát thủy văn biển của tàu khảo sát hải quân Mỹ Bowditch gần đảo Hải Nam cùng năm đó.

Đối với Mỹ, những hoạt động khảo sát này đã trở nên quan trọng hơn bởi sự hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc. Hải quân Mỹ muốn theo đuổi từng đường đi nước bước của các tàu ngầm Trung Quốc (một số là hạt nhân) - đang hoạt động từ căn cứ Yulin ở Hải Nam. Nhiệm vụ của Impeccable năm 2009 không khác gì nhiệm vụ của Bowditch năm 2001 và không phải là tín hiệu cho một chiến lược mới của Mỹ.

Mỹ cũng đã tuyên bố một cách nhất quán lợi ích của mình trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Trước đây, Mỹ cũng đã đề nghị được làm hòa giải nếu các bên yêu cầu. Tuy nhiên, có vẻ như có một nhân tố mới trong những tuyên bố gần đây của Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố vào tháng 7/2010:

"Theo luật tập quán quốc tế, các yêu sách hợp pháp đối với các khu vực biển ở Biển Đông chỉ nên xuất phát từ các yêu sách hợp pháp đối với các điểm đất liền."[7]

Trong khi đây là một phát biểu đúng đắn, Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất cho rằng thật là nghịch lý rằng một quốc gia không phải là thành viên của Công ước Luật Biển lại đang thuyết giáo các quốc gia thành viên của Công ước đó về luật tập quán quốc tế trong lĩnh vực này. Trong số các quốc gia xung quanh Biển Đông, chỉ có Cam-pu-chia và Thái Lan chưa phê chuẩn Công ước.

Việc ký kết văn kiện này năm 1982 không phải là một thắng lợi đối với các cường quốc hải quân. Mặc dù khẳng định nguyên tắc tự do hàng hải, văn kiện này trên hết phản ánh lợi ích của các quốc gia ven biển và quần đảo - những nước mà đã đạt được một sự gia tăng đáng kể quyền chủ quyền đối với các khu vực biển rộng lớn. Trung Quốc, Indonesia và Phi-lip-pin là những quốc gia ủng hộ rất nhiệt tình cho Công ước này. Mỹ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đàm phán và tuyên bố rằng Mỹ hài lòng với kết quả đạt được (mặc dù Mỹ có phản đối chương về đáy biển quốc tế với mục đích thành lập một Cơ quan Quyền lực Đáy biển Quốc tế). Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa thông qua Công ước này.

Điều mà chúng ta chứng kiến trong thời gian gần đây không phải là việc thực thi các chiến lược mới của Trung Quốc và Mỹ mà là sự xung đột giữa các lập trường đã có từ lâu. Đáng lưu ý là các quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ Cam-pu-chia, Thái Lan, Lào và My-an-ma đã phá vỡ xu hướng xích lại sự hấp dẫn về kinh tế của Trung Quốc và đã bắt tay với Mỹ trên lĩnh vực an ninh.

Một số học giả tham gia hội thảo thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện quan ngại rằng các cường quốc địa chính trị có thể bỏ qua các nỗ lực quản lý xung đột cục bộ và các nỗ lực khu vực để chống lại các mối đe dọa quan trọng nhất ở Biển Đông, ví dụ như sự phá hủy môi trường biển và sự cạn kiệt của các nguồn hải sản. Hầu hết các học giả đều tỏ ra thất vọng rằng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) từ năm 2002 không được coi trọng hơn nữa. Các học giả này cảm thấy cần thiết phải đàm phán một Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) mới ràng buộc về mặt pháp lý với các điều khoản cụ thể hơn, như là cấm tăng cường hơn nữa các công trình mà Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan , Ma-lai-xia và Phi-lip-pin đang tiếp tục xây dựng trên các đảo đá và đảo nhỏ mà các nước này chiếm đóng ở Trường Sa.[8] Cần nhấn mạnh rằng bi kịch thực sự của các công trình này không phải là công trình đó biểu trưng cho mối đe dọa về quân sự. Các đảo nhỏ ở Trường Sa không thể cầm cự được trước một kẻ tấn công đầy quyết tâm và luôn luôn có giá trị chiến lược không đáng kể. Bi kịch thực sự đó là các công trình xây dựng, đường sá và giao thông du lịch và quân sự ở khu vực đang phá hủy môi trường sống của các loài trên đá san hô. Trước đây, các đảo này là nơi sinh sản cho rùa biển; hiện tại, các đảo này vẫn hỗ trợ sinh sản cho vô số các loài chim và cá.

Mặc dù sẻ chia sự thất vọng đó, tôi thuộc về số ít học giả lạc quan khá thận trọng tại hội thảo. Thiểu số này cho rằng sự khủng hoảng hiện thời có thể sẽ khiến Trung Quốc nhận ra rằng chính sách được kế thừa của Trung Quốc đang đi ngược lại với lợi ích của chính họ. Nếu Trung Quốc thay đổi chính sách của mình để phù hợp hơn với luật quốc tế, Trung Quốc có thể nhận được sự ủng hộ của các quốc gia khác trong nỗ lực loại bỏ một số hoạt động không quân và hải quân của Mỹ.

Ngày nay, các tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, đảo nhỏ và các khu vực biển đang được kết hợp với vấn đề tiếp cận của hải quân Mỹ đối với các khu vực ven biển của Trung Quốc. Trung Quốc muốn tách hai vấn đề này nhằm ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ đối với các tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, để tách riêng hai vấn đề này, Bắc Kinh phải hiểu rằng sức mạnh hải quân ngày càng phát triển không tự động gia tăng vị thế chính trị trong khu vực. Điều đó có thể chỉ dẫn đến hành vi đối trọng. Nếu các quốc gia láng giềng chấp nhận sự lớn mạnh của khả năng hải quân của Trung Quốc mà không cần phải đối trọng, các quốc gia này cần phải được thuyết phục rằng Trung Quốc sẽ hoạt động phù hợp với luật quốc tế. Và nếu Bắc Kinh nhìn nhận Biển Đông thông qua lăng kính pháp lý, Trung Quốc sẽ nhận ra rằng không phải chỉ có một tranh chấp về Biển Đông, mà ít nhất có 3 tranh chấp khác nhau. Mỗi một tranh chấp có thể được tiếp cận riêng biệt.

Tự do hàng hải (Và vấn đề do thám)

Tranh chấp đầu tiên liên quan đến tự do hoạt động quân sự trên biển và trên không trong vùng lãnh hải (12 hải lý) và EEZ (200 hải lý) của các quốc gia ven biển. Khi các đại diện của Mỹ nói về điều này, họ thường hay nói là "tự do hàng hải", nhưng Mỹ đang nghĩ đến nhiều hơn chỉ đơn thuần là "hàng hải." Mỹ sẵn sàng ngăn chặn bất kỳ phát triển pháp lý nào cản trở Mỹ tiến hành các hoạt động quân sự và thu thập tình báo ở các vùng kinh tế biển của các quốc gia khác.

Về vấn đề liệu Mỹ có hay không quyền tiến hành các hoạt động khảo sát thủy văn biển trong vùng EEZ của Trung Quốc mà chưa có sự cho phép của quốc gia này, cách giải thích luật biển của Mỹ còn thiếu chặt chẽ. Trung Quốc do đó đã có thể nhận được sự ủng hộ đáng kể trong khu vực đối với lập trường của mình. Nhưng sự ủng hộ đó đã không được đưa ra bởi vì các nước láng giềng của Trung Quốc lo sợ rằng Trung Quốc sẽ sử dụng hải quân của mình để tăng cường các yêu sách về lãnh thổ của mình.

Trung Quốc, Việt Nam và Phi-lip-pin đều yêu cầu phải xin phép trước đối với quyền qua lại của tàu chiến qua vùng lãnh hải của các quốc gia này.[9] Trong vùng EEZ (12 đến 200 hải lý), các tàu chiến được hưởng quyền tự do hàng hải đầy đủ bởi quyền tài phán của quốc gia ven biển chỉ liên quan đến các nguồn tài nguyên ở khu vực này. Tuy nhiên, vẫn có các quốc gia như Brazil và Ma-lai-xia có quy định rằng các hoạt động hay tập trận quân sự không được phép thực hiện trong vùng EEZ của các quốc gia này.[10] Trong phần của UNCLOS điều chỉnh các hoạt động thương mại được tiến hành trong vùng EEZ của một quốc gia khác, điều 246 (2) quy định:

"Nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phải được tiến hành với sự đồng ý của quốc gia ven biển."

Mặt khác, điều 204 (a) quy định:

"Nghiên cứu khoa học biển sẽ chỉ được tiến hành cho các mục đích hòa bình."

Do đó, có một nghịch lý rằng các hoạt động khảo sát thủy văn biển được Bowditch tiến hành năm 2001 và Impeecable năm 2010 sẽ vi phạm UNCLOS nếu chúng được tiến hành vì mục đích khoa học hay thương mại, nhưng không vi phạm luật tập quán quốc tế (do thực tiễn các quốc gia xác định) khi được thực hiện chỉ cho mục đích quân sự thuần túy. Có một nguy cơ rõ ràng rằng Trung Quốc sẽ hủy bỏ cách giải thích luật quốc tế hiện thời và đi theo quan điểm của Mỹ rằng, khi một hải quân lớn mạnh về số lượng và đủ mạnh thì có thể di chuyển ra xa khỏi bờ biển của mình.

Phân định biển

Tranh chấp thứ hai liên quan đến sự phân định ranh giới biển. Trung Quốc vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ của mình trong UNCLOS về việc công khai chính xác yêu sách về ranh giới ngoài của các vùng EEZ và thềm lục địa của Trung Quốc. Những yêu sách của Trung Quốc mơ hồ và đa dạng đến mức đã kích động sự phản đối từ các quốc gia yêu sách khác. Có lẽ, thông điệp rõ ràng nhất từ hầu như mọi học giả tham gia cả hai hội thảo ở Việt Nam (ngoại trừ Trung Quốc và Đài Loan) là mong muốn PRC và ROC làm rõ các yêu sách của mình.

Rất nhiều học giả Trung Quốc và Đài Loan tin rằng họ có thể yêu sách hầu như toàn bộ Biển Đông nằm trong đường "chín đoạn" hay "chữ U" như là "vùng nước lịch sử" của Trung Quốc hoặc như vùng EEZ và thềm lục địa của Trường Sa và các nhóm đảo khác. Tuy nhiên, không có cách nào mà nguyên tắc "vùng nước lịch sử" hay phép tính vùng EEZ hay thềm lục địa từ các đảo này có thể đưa đến kết quả đó. Nếu Trung Quốc đạt được các quyền chủ quyền đối với toàn bộ khu vực được đường đứt đoạn bao quanh, Trung Quốc cần phải phá vỡ hay sửa lại hoàn toàn luật quốc tế, và điều này cần phải được sự chấp nhận của các quốc gia khác.

Từ tháng 5/2009, khi Trung Quốc đính kèm bản đồ có in hình đường đứt đoạn vào công hàm gửi CLCS phản đối Báo cáo chung giữa Việt Nam và Ma-lai-xia về ranh giới thềm lục địa, vai trò pháp lý của tấm bản đồ này đã được một học giả danh tiếng về luật biển người châu Âu - Erik Franckx, thuộc Đại học Vrije Brussel, Bỉ nghiên cứu kỹ lưỡng. Ông là thành viên của Tòa Trọng tài Thường trực và là Chủ tịch của Ban Luật Quốc tế và Châu Âu. Ông đã trình bày những nghiên cứu của mình tại hội thảo ở thành phố Hồ Chí Minh, cùng với trợ lý nghiên cứu của ông là Marco Benatar. Bài báo pháp lý được mong đợi, phát triển dựa trên bài trình bày của hai học giả này tại Hội thảo có khả năng sẽ kết luận rằng tầm bản đồ có in hình đứt đoạn thiếu cơ sở vững chắc. Do đó, tấm bản đồ này sẽ mang lại phiền toái nếu tiếp tục được duy trì là một phần trong chính sách chính thức của PRC và ROC.[11]

Bản đồ có in hình đường đứt đoạn được PRC thừa kế từ thời Trung Hoa Dân Quốc (Trung Hoa Dân Quốc) của Tưởng Giới Thạch và xuất hiện trên một số bản đồ do Trung Quốc xuất bản. Bản đồ này là một phần của tinh thần dân tộc, do đó không thể dễ dàng bị xóa bỏ. Tuy nhiên, nó có thể được giải thích lại hoặc gác lại một cách lặng lẽ trong khi Trung Quốc công bố chính xác các yêu sách về EEZ và thềm lục địa. Điều này có thể xảy ra, dù hơi chậm, nếu các chính phủ ở Bắc Kinh và Đài Bắc có đủ ý chí để ban hành các chính sách cần thiết mới bất chấp những tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc.

Những tuyên bố gần đây từ Đài Bắc, chính phủ đang chiếm đóng đảo lớn nhất ở Trường Sa, Ba Bình đã không còn quá coi trọng lập luận "vùng nước lịch sử". Lập luận này đã chi phối suy nghĩ của Đài Bắc trước đây. Thay vào đó, các chuyên gia pháp lý của Đài Loan bây giờ có xu hướng coi vùng biển trong nằm bên trong đường lưỡi bò là "vùng nước bao quanh" của một số điểm đất liền mà ROC có chủ quyền.

Như đã đề cập, phản đối của PRC lên CLCS cũng nhắc đến các đảo và "các vùng biển kế cận". Cách thức đúng đắn để yêu sách chủ quyền đối với các điểm đất liền đó là đặt tên và định vị chính xác từng điểm cũng như giải thích các điểm này đã được phát hiện, quản lý và sử dụng như thế nào. Điều này không thể chỉ đơn giản được thực hiện bằng việc vẽ một đường bao quanh một khu vực trên một bản đồ. Đối với Trung Quốc, việc chuyển sang yêu sách sở hữu đối với các tài nguyên biển từ yêu sách chủ quyền đối với các vùng đất chắc chắn là một bước đi đúng hướng. Tuy nhiên, vấn đề đối với Trung Quốc không chỉ là các yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, Hoàng Sa và Bãi cạn Scarborough đang bị tranh chấp; một số đảo nhỏ có kích thước quá nhỏ để có thể có vùng EEZ hay thềm lục địa; một số đảo khác cũng có kích thước quá nhỏ để có thể có nhiều hiệu lực trong phân định vùng EEZ của quốc gia (ngoại trừ bên ngoài 200 hải lý từ bờ biển, còn được gọi là vùng "bánh donut"* ở giữa Biển Đông).

Không vùng EEZ nào có thể rộng hơn 200 hải lý tính từ bờ biển, nhưng thềm lục địa có thể mở rộng ra ngoài giới hạn đó. Báo cáo chung giữa Việt Nam và Ma-lai-xia tháng 5/2009 về ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý thể hiện một bước đi quan trọng tiến tới việc áp dụng luật biển bởi báo cáo này đã hoàn toàn bỏ qua các đảo nhỏ ở Trường Sa, rất nhiều trong đó đang bị Ma-lai-xia và Việt Nam chiếm đóng. Báo cáo này chỉ tính khoảng cách thuần túy từ bờ biển và các đảo gần bờ của Ma-lai-xia, Việt Nam, Brunei và Phi-lip-pin.

Dù sao đi nữa, xét việc phân định ở các nơi khác - ví dụ như gần đây nhất ở Hắc Hải giữa Ru-ma-nia và Ucraina - rõ ràng phương pháp thích hợp để phân định như sau: trước tiên, mô tả các yêu sách về thềm lục địa và EEZ dựa trên khoảng cách từ bờ biển chính; thứ hai, xác định đường trung tuyến giữa hai bờ biển đối diện (hay đường cách đều giữa các bờ biển liền kề); và chỉ khi đó mới xem xét liệu các đảo nhỏ có thể có hiệu lực trong phân định hay không.

Các chuyên gia pháp lý Việt Nam đã hoàn toàn hiểu được vấn đề này. Điều này được minh chứng trong bài thuyết trình chi tiết tại hội thảo thành phố Hồ Chí Minh của bà Nguyễn Thị Lan Anh từ Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bà đã chứng minh rằng việc phân định biển ở Biển Đông sẽ vô cùng khó khăn nếu bất kỳ điểm đảo nào ở Trường Sa được phép có hiệu lực trong việc phân định EEZ hay thềm lục địa.[12]

* Theo trang web nghiên cứu Biển Đông (nghiencuubiendong.vn)

Bản gốc tiếng Anh " China's Changing Role in the South China Sea: Reflections on a Scholars Workshop". Bài viết được in trong Seri đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly với chủ đề "The Disputed Sea - Maritime Security in East Asia" tháng 12/2010
___________________________________________________________

*Stein Tonnesson là một nhà nghiên cứu về hòa bình, nhà lịch sử quốc tế và hiện tại là một Nghiên cứu viên cao cấp Jennings Randolph tại Học viện Hòa bình của Mỹ tại Washington DC cho đến tháng 7/2011. Ông muốn bày tỏ sự cảm ơn đối với Học viện Ngoại giao Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam đã có lời mời ông tham dự hai hội thảo Biển Đông vào tháng 11/2009 và tháng 11/2010. Để xem thêm về các bài viết của Tonnesson, xem: www.cliostein.com.

[1] 1. Cộng hòa Trung Quốc (Đài Loan) đã đưa ra một tuyên bố riêng. Smith, R. W., "Maritime Delimitation in the South China Sea: Potentiality and Challenges," Ocean Development and International Law 41 (2010): 232-233.

[2] Về vị trí của Quốc vụ khanh Đới Bỉnh Quốc trong Nhóm ra quyết sách về các vấn đề đối ngoại trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, xem Linda Jakobson và Dean Knox, "Foreign Policy Actors in Chinese Decision-Making," SIPRI Policy Paper 26 (9/2010): 5.

[3] "Hai nước tái khẳng định rằng nguyên tắc cơ bản về tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau là trọng tâm cốt lõi trong ba tuyên bố chung Mỹ - Trung vốn là kim chỉ nam cho mối quan hệ Mỹ - Trung. Không bên nào ủng hộ bất kỳ nỗ lực của bất kỳ lực lượng nào muốn làm suy giảm nguyên tắc này. Hai bên nhất trí rằng tôn trọng các lợi ích cốt lõi của nhau là cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển ổn định trong quan hệ Mỹ - Trung." Tuyên bố chung Mỹ - Trung, 17/11/2009. Truy cập ngày 26/10/2010: http://www.whitehouse.gov/the-press-offce/us-china-joint-statement.

[4] Do vậy, Niall Ferguson đã làm cho người đọc hiểu nhầm khi tuyên bố rằng "Biển Đông đã được tuyên bố là 'lợi ích quốc gia cốt lõi'," The Wall Street Journal, 18/11/2010. Christian Karyl cũng gây ra điều tương tự khi viết rằng "Trung Quốc làm cả thế giới giật mình khi tuyên bố rằng Trung Quốc coi các vùng lãnh thổ ở khu vực Biển Đông rất giàu tài nguyên là một khu vực thuộc 'lợi ích quốc gia sống còn'," The New York Review of Books 52-9 (11/2010): 32.

[5] Carlyle Thayer, "Recent developments in the South China Sea and Implications for Regional Security and Prosperity." Bài viết cho Hội thảo quốc tế lần 2, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 11 - 12/11/2010. Một phần trong Kỷ yếu gồm tập hợp các tham luận cho Họi thảo quốc tế lần 2, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Xem thêm Carlyle Thayer, Southeast Asia: Patterns of Security Cooperation, Viện Chính sách Chiến lược Úc (9/2010): 34-35

[6] Bronson Percival, "The South China Sea: An American Perspective." Bài viết cho Hội thảo quốc tế lần 2, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 11 - 12/11/2010.

[7] Ngoại trưởng Hillary R. Clinton, Phát biểu tại buổi họp báo, Trung tâm hội nghị quốc gia, Hà Nội, 23/7/2010. Sưu tầm ngày 18/11/2010: http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm

[8] Ảnh chụp trên không của các công trình này có thể xem trong Rommel C. Banlaoi, "Renewed Tensions and Continuing Maritime Security Dilemma in the South China Sea: A Philippine Perspective," Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 26-27/11/2009, Hiệu đính: Tran Truong Thuy (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 2010), 149-157.

[9] Donald R. Rothwell và Tim Stephens, The International Law of the Sea (Oxford và Portland: Hart Publishing, 2010), 270.

[10] Như trên, 275.

[11] Erik Franckx và Marco Benatar, "Dotted Lines in the South China Sea: Fishing for (Legal) Clarity." Bài viết cho Hội thảo quốc tế lần 2, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 11 - 12/11/2010.

* Cụm từ "Bánh Donut" do Indonesia đề xuất, theo đó các vùng nằm ngoài 200 hải lý tính từ đường bờ biển và đảo của nhiều nước có yêu sách sẽ là khu vực hợp tác của tất cả các nước xung quanh biển Đông - ND

[12] Nguyễn Thị Lan Anh, "Maritime Delimitation in International Law and the Impacts on the South China Sea Disputes." Bài viết cho Hội thảo quốc tế lần 2, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, 11 - 12/11/2010.
New posts:







Share



Xem thêm »

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

Chiến tranh Việt Nam và ngày 30 tháng 4 dưới mắt TS Cù Huy Hà Vũ

LTS:"Tôi không thích tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, cũng không quan tâm nhiều lắm đến các lý lẽ của Ông. Thậm chí tôi còn không biết Cù Huy Cận có người con trai là tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cho đến khi hàng loạt các trang tin điện tử đăng tin ông bị bắt gây nên hiện tượng Cù Huy Hà Vũ ( Lúc 20 giờ 56 phút ngày 14/04/2011, gõ từ khóa 'Cù Huy Hà Vũ' đầy đủ dấu, Google tìm được 1,030,000 kết quả trong 0,06 giây)"
Bài phỏng vấn tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ của VOA Tiếng Việt.
VOA: Thưa Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, nhiều người cho rằng trong chiến tranh Việt Nam người Mỹ không thua trận trên chiến trường mà thua tại sân nhà, do các làn sóng phản chiến trên các đường phố Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Một trong những người này là Tiến sĩ Roger Canfield đã nói như vậy trong một cuốn sách của ông ấy mới đây. Tiến sĩ nghĩ sao về nhận định này?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Hoa Kỳ cho rằng họ can thiệp quân sự ở Việt Nam là nhằm ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản mà Miền Bắc Việt Nam là “tiền đồn” ở Đông Nam Á trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Vì vậy, việc Hoa Kỳ đã thua trong chiến tranh Việt Nam đương nhiên có nghĩa họ đã bại trận trước chủ nghĩa cộng sản, điều mà Nhà trắng và nhiều người khác hẳn không thể và không muốn chấp nhận.

Vậy cần phải có một lý giải khác về thất bại quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam và tôi cho rằng Tiến sĩ Roger Canfield đã đi theo hướng đó bằng cách cho rằng Hoa Kỳ thua trận là do người dân nuớc này phản chiến.
Quan điểm của cá nhân tôi là Hoa Kỳ đã thật sự thua trên chiến trường Việt Nam và các làn sóng phản chiến trên các đường phố New York, Washington… chỉ là hệ quả, phản ánh sự mất kiên nhẫn của người dân Mỹ, đặc biệt trước thiệt hại quá lớn về sinh mạng của lính Mỹ.

Thực vậy, ngoài con số hơn 300.000 lính Mỹ bị thương, số lính Mỹ chết trong “Chiến tranh cục bộ” từ 1965 đến 1968 tại Miền Nam Việt Nam là khoảng 58.000, gấp đôi số lính Mỹ chết trong chiến tranh Triều Tiên từ 1951 đến 1953, trong khi cộng sản Triều Tiên còn có sự hỗ trợ của gần 3 triệu lượt quân Trung Quốc.

VOA: Vậy theo ý ông chủ nghĩa cộng sản đã thắng Hoa Kỳ tại Việt Nam cách nay 35 năm?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Có một thực tế là Mỹ đã thua trận trước các lực lượng cộng sản Việt Nam nhưng điều này tuyệt nhiên không có nghĩa chủ nghĩa cộng sản đã thắng Mỹ.
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa cộng sản dưới màu sắc chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt Nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam thừa nhận.
Nói cách khác, tính ưu việt hay hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản mà Hoa Kỳ đại diện chưa bao giờ được chứng minh ở Việt Nam nên sẽ là quàng xiên khi nói rằng bên chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam là hệ tư tưởng cộng sản. Sự sụp đổ ngoạn mục của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước chỉ có thể xác nhận quan điểm này của tôi.

VOA: Vậy theo Tiến sĩ, Hoa Kỳ thua trong chiến tranh Việt Nam là vì những lý do gì?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Phải khẳng định rằng không có sự giúp đỡ đắc lực của Liên Xô và Trung Quốc thì khó có thể tưởng tượng nổi Hà Nội đã có thể giành chiến thắng trước Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phương tiện chiến tranh mà các lực lượng cộng sản Việt Nam nhận được từ hai cường quốc cộng sản này chắc chắn không thể bì được với phương tiện chiến tranh mà Hoa Kỳ sở hữu tại chiến trường cả về số lượng lẫn chất lượng. Để nói rằng, sự giúp đỡ mà Liên Xô và Trung Quốc đã dành cho Việt Nam trong cuộc chiến với Mỹ là đặc biệt quan trọng nhưng rõ ràng không phải là nhân tố quyết định chiến thắng của Việt Nam.

Tất nhiên không ai có thể sửa lại được lịch sử nhưng theo tôi, lẽ ra đã không có chiến tranh Việt Nam và tất nhiên đã không có chuyện Hoa Kỳ thua trận nếu như siêu cường quốc này đã không cố tình mắc sai lầm trong đánh giá đối phương. Thực vậy, việc Hoa Kỳ bao cho Pháp đến 80% chi phí quân sự vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất rốt cuộc không cứu vãn nổi sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ vào năm 1954 ngay từ lúc đó đã chứng tỏ ưu thế về phương tiện chiến tranh không phải cái để bảo đảm chiến thắng trước những chiến binh Việt Nam cộng sản.

Nói cách khác, lẽ ra chiến tranh Việt Nam đã có thể tránh được nếu như trước đó Mỹ đã không ngộ nhận những người lính của Tướng Giáp là những rô-bốt của Trung Quốc và Liên Xô, hay lính đánh thuê cho chủ nghĩa cộng sản, nếu như Hoa Kỳ đã dụng công để hiểu người Việt.
VOA: Như vậy phải chăng ý Tiến sĩ muốn nói rằng muốn xử lý quan hệ với Việt Nam, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu người Việt? Nếu đúng vậy thì tại sao?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Khi tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, Hoa Kỳ đã quy những người cộng sản Việt Nam và những người ủng hộ họ vào chủ nghĩa cộng sản, tức những người này được điều khiển bởi một hệ tư tưởng duy nhất là chủ nghĩa cộng sản. Sai lầm chết người của Hoa Kỳ chính là chỗ này: người Việt có hệ tư tưởng riêng của họ nên không còn chỗ cho hệ tư tưởng khác, mà ở đây là chủ nghĩa cộng sản, trú ngụ.

Hiểu như thế thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là phương tiện mà người Việt sử dụng để phục vụ hệ tư tưởng riêng của mình.
Như vậy, Hoa Kỳ vào Việt Nam là để đánh chặn hệ tư tưởng cộng sản nhưng thực tế lại phải giao chiến với hệ tư tưởng của người Việt, điều mà Hoa Kỳ không hề tính tới trước khi lâm trận nên thất bại là tất yếu.

VOA: Ông vừa nói người Việt có một hệ tư tưởng, vậy hệ tư tưởng đó là gì, thưa ông?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Việt Nam là một nước đa sắc tộc và người Việt chiếm tới 90% dân số, do đó cái tên Việt được các triều đại phong kiến Việt Nam dùng để chỉ cư dân và làm cơ sở để đặt tên nước như Đại Cù Việt, Đại Việt rồi Việt Nam.

Người Việt hiện nay còn được gọi là người Kinh. Còn tại sao có cái tên này thì chưa có nghiên cứu nào, từ điển nào đề cập. Nhưng theo tôi, cái tên “Kinh” là đặt theo tên của Kinh Dương Vương, thủy tổ của người Việt theo huyền sử và điều này chứng tỏ người Việt rất có ý thức về nguồn cội của mình.

Như vậy, có thể nói dân tộc Việt Nam là một dân tộc thuần Việt suốt chiều dài lịch sử và chính đặc điểm “thuần Việt” này đã hình thành cho người Việt tư tưởng Một dân tộc, Một quốc gia hay Dân tộc đồng nhất với Quốc gia, để từ đó đi đến nguyên lý bất di bất dịch: không thể có độc lập dân tộc thực sự với một quốc gia bị chia cắt về lãnh thổ, hay độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất lãnh thổ quốc gia, thống nhất đất nước.

Cũng phải nói rõ rằng sự hình thành của người Việt miền Nam Việt Nam là do di dân từ Bắc Việt Nam xuống. Thực vậy, năm 1611, Chúa Nguyễn Hoàng là bề tôi Nhà Hậu Lê, đã từ Thuận Hoá, tức là Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế ngày nay, là nơi ông trấn thủ, thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên để mở rộng bờ cõi Đại Việt xuống phía Nam.
Do đó, cái gốc Bắc của người Việt Miền Nam bản thân nó đã là một sự kháng cự khủng khiếp chống lại mọi toan tính hay hành vi chia cắt miền Nam khỏi miền Bắc.
Nhà thơ Xuân Diệu, bác ruột và là cha nuôi tôi, trong cuộc diễn thuyết đầu tháng 12/1945 tại Hà Nội với tiêu đề không gì rõ hơn: “Miền Nam nước Việt và người Việt Miền Nam” kêu gọi thanh niên Miền Bắc gia nhập các đội quân Nam tiến để cùng “đồng bào” Nam bộ chống Pháp tái chiếm, đã nhắc tới cái đau đáu nguồn cội của những người Việt theo Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam bằng những câu thơ bất tử của Huỳnh Văn Nghệ: “Ai về Bắc ta theo với/Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/Từ độ mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”.

Tóm lại, hệ tư tưởng của người Việt là Việt Nam là một thể thống nhất và vì vậy là sự phủ nhận chủ nghĩa ly khai. Tôi gọi hệ tư tưởng ấy của người Việt là chủ nghĩa Nhất thể Việt, tạm dịch là Vietnamunism, tương tự như chủ nghĩa Bài Ly Khai vậy.

Tôi cũng khẳng định rằng một dân tộc có hệ tư tưởng của riêng mình là bất diệt.


VOA: Lịch sử Việt Nam là sự đan xen của các cuộc chiến tranh vói nước ngoài và các cuộc nội chiến. Vậy liệu chủ nghĩa Nhất thể Việt hay chủ nghĩa Bài Ly Khai của người Việt mà ông vừa nói tới liệu có mâu thuẫn với các cuộc nội chiến không, thưa ông?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đúng là lịch sử Việt Nam không chỉ gồm các cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và vệ quốc. Thế nhưng có một điều vô cùng đặc biệt và tưởng chừng mâu thuẫn là các cuộc nội chiến lại không dẫn đến sự chia cắt lãnh thổ mà ngược lại, củng cố sự thống nhất của quốc gia.

Thực vậy, các cuộc nội chiến đều nổ ra vào giai đoạn thoái trào của triều đình đương thời như một sự tất yếu để bầu chọn người lãnh đạo mới của quốc gia. Điều này là cốt tử đối với người Việt vì nếu không kịp thời thay thế triều đình suy vi thì Việt Nam sẽ là miếng mồi ngon cho phong kiến Trung Hoa. Nghĩa là “Nội chiến hay là Chết” trong bối cảnh Việt Nam luôn bị nước lớn phương Bắc này rình rập thôn tính.

Tóm lại, cần xem nội chiến như chất kháng thể có sẵn trong cơ thể quốc gia Việt Nam có chức năng can thiệp kịp thời để lành mạnh hoá cơ thể.

Cũng bởi đều nhằm tới sứ mạng quốc gia ấy nên không bên tham chiến nào có ý đồ cát cứ, ly khai dẫn tới chia cắt lãnh thổ quốc gia. Nghĩa là “được ăn cả, ngã về không” như cách nói dân gian và thỏa hiệp nếu có thì chỉ là tạm thời.

Điển hình cho quyết tâm nội chiến để duy trì và củng cố sự thống nhất quốc gia Việt Nam là Chúa Nguyễn Ánh. Sau khi đánh bại Chúa Trịnh rồi Triều Tây Sơn trong cuộc nội chiến nổ ra khi Triều Lê mạt vận, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế và để chứng tỏ thống nhất đất nước là mục tiêu tối thượng của cuộc chiến do ông tiến hành, đã ghép chữ đầu của Gia Định là thủ phủ Miền Nam với chữ cuối của Thăng Long là kinh đô Nhà Lê ở Miền Bắc để làm niên hiệu Gia Long.

Để nói thống nhất Bắc-Nam, thống nhất đất nước Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử, là yêu cầu tối thượng của hệ tư tưởng của người Việt hay chủ nghĩa Nhất thể Việt và vì vậy là bất khả kháng. Do không hiểu được người Việt như thế nên Hoa Kỳ đã can thiệp quân sự nhằm duy trì Vĩ tuyến 17 chia đôi Việt Nam và thất bại là cái giá phải trả.
VOA: Vậy theo Tiến sĩ, chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 là cuộc chiến của Hoa Kỳ hay là nội chiến giữa người Việt với người Việt?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Theo tôi chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ được bắt đầu từ cuối cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương khi Hoa Kỳ quyết định tài trợ 80% chi phí cho cuộc chiến tranh này như đã đề cập. Tuy nhiên cuộc chiến tranh này của Hoa Kỳ lại dẫn đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa những người Việt. Vì vậy nói chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến là không sai nhưng đó chỉ là một cuộc chiến trong một cuộc chiến khác, cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ tiến hành.

Trên thực tế, giai đoạn sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1973 theo Hiệp định Paris được các chuyên gia quốc tế gọi là giai đoạn “Việt nam hoá” chiến tranh của Hoa Kỳ. Chính vì vậy tôi cho rằng ngày 30/4/1975 là ngày kết thúc cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời cũng là ngày kết thúc cuộc nội chiến giữa những người Việt.
VOA: Ông nghĩ sao về cách diễn đạt của ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam và nguyên cả bộ máy tuyên truyền cho rằng ngày 30/4/1975 là “Ngày giải phóng Miền Nam” ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Khi nói “giải phóng Miền Nam” thì không thể không xác định giải phóng Miền Nam khỏi ai, khỏi cái gì.

Trước hết, chắc chắn không phải “giải phóng Miền Nam” khỏi sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vì ngày 30/4/1975 quân đội cộng sản nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh, đó chưa kể Hoa Kỳ đã rút hết quân khỏi Miền Nam từ năm 1973 theo Hiệp định Paris.

Vậy chỉ còn khả năng “giải phóng Miền Nam” khỏi chế độ tư bản, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác – Lê nin. Tại thời điểm năm 1975 thì đúng là như vậy do có sự ngộ nhận của một bộ phận những người cộng sản Việt Nam, mà bằng chứng là các chiến dịch “cải tạo công thương nghiệp tư doanh” và “tập thể hoá nông nghiệp” trên cơ sở quốc hữu hoá cơ sở sản xuất, đất đai thuộc sở hữu tư nhân do chính quyền mới tiến hành ngay sau đó.

Tuy nhiên tại thời điểm hiện nay thì quan niệm đó chắc chắn không chỉ là lỗi thời mà còn là phản động theo đúng nghĩa đen của từ này vì ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã công khai đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
VOA: Ông có thể chứng minh điều này được không vì cho đến thời gian gần đây, lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên bố kiên định với chủ nghĩa Xã hội?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Cốt lõi của chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lê Nin là kinh tế Nhà nước chỉ huy hay kinh tế tập trung, kinh tế tư nhân được coi là “bóc lột người” bị loại trừ. Thế nhưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã phá sản tuyệt đối vào năm 1985 khi chính sách giá-lương-tiền của Chính phủ Việt Nam gây lạm phát tới 900%, dẫn đến kinh tế tư nhân hay kinh tế thị trường được Đảng cộng sản Việt Nam phục hồi tại Đại hội 6 của Đảng vào năm sau, 1986.
Nhưng phải đến năm 1990 thì chủ nghĩa tư bản mới được chính danh bằng Luật Công ty và doanh nghiệp tư nhân. Và Đại hội 10 của đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra cách đây 4 năm đã hoàn tất công cuộc phá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng cách chính thức cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân.

Ngoài ra, hai giai cấp được đảng Cộng sản Việt Nam coi là nòng cốt xây dựng chủ nghĩa xã hội và là đối tượng được hưởng sự chăm sóc đặc biệt của chế độ này là công nhân và nông dân, Búa và Liềm ấy, hiện nay trên thực tế lại thuộc những người cùng khổ của xã hội, tựa những gì mà Nguyễn Ái Quốc đã mô tả cách đây 90 năm trong báo Le Paria - Người cùng khổ.

Thực vậy, ở nhiều địa phương công nhân bị bóc lột và bị xúc phạm nhân phẩm thậm tệ, không có quyền đình công trên thực tế, còn nông dân thì bị chính quyền công nhiên chiếm đoạt đất đai, nguồn sống có thể nói là duy nhất của họ.
VOA: Nếu vậy tại sao ban lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên bố kiên định chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lê nin, thưa ông?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Sở dĩ có chuyện ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo là vì họ sợ mất quyền lợi của bản thân. Thực vậy, nếu chính thức tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa xã hội thì Đảng cộng sản Việt Nam sẽ mất độc quyền lãnh đạo đất nước trong khi quyền lực lại là phương tiện làm giàu của đại đa số đảng viên có chức vụ.

Tóm lại, việc duy trì cho Đảng cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo đất nước không gì khác hơn là để phục vụ lợi ích phi pháp của một nhóm nhỏ trong Đảng cộng sản Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có hàng triệu đảng viên cộng sản và vì vậy quyết không thể kéo dài hơn được nữa!

Do đó, để tránh cho ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam một sự sụp đổ như đã diễn ra với các chính thể cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều vì hành xử của tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân đáng tiếc là vẫn đậm chất nông dân theo đó cách mạng đồng nghĩa với trả thù, phục hận, cách duy nhất là mau chóng thực hiện chế độ đa đảng, điều mà Hiến pháp Việt Nam chưa bao giờ cấm và bản thân Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ trương và thực hiện.
VOA: Nghĩa là Tiến sĩ cho rằng cách diễn đạt “Ngày giải phóng Miền Nam” theo ban lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và bộ máy tuyên truyền bây giờ là không đúng?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đúng như vậy và vì thế cần phải bỏ. Đó là chưa kể cách diễn đạt này dễ bị diễn giải thành “Miền Bắc thôn tính Miền Nam” và trong trường hợp đó lại trở thành mầm mống gây chia rẽ Bắc – Nam không chỉ trong nhân dân mà trước hết và ngay trong chính nội bộ những người cộng sản.

Mặt khác, không thể nào thực hiện được hoà hợp, hoà giải với những người Việt bên kia chiến tuyến như Nhà nước cộng sản Việt Nam chủ trương nếu Nhà nước này vẫn duy trì cách diễn đạt mang đậm chất “thắng – thua” như trên.

Mặc dầu vậy, không thể phủ nhận tính lịch sử của ngày 30/4/1975 vì đó là ngày đất nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh, độc lập dân tộc được Chính phủ Hồ Chí Minh mà phụ thân tôi, Cù Huy Cận là bộ trưởng thành viên, tuyên ngày 2/9/1945 đến lúc đó mới thực sự trọn vẹn.

So với những nước khác cũng bị Chiến tranh lạnh chia cắt thì đó dứt khoát là một kỳ tích của người Việt Nam. Thực vậy, mãi 14 năm sau bức tường Berlin mới sụp đổ còn bán đảo Triều Tiên thì chưa biết khi nào mới có thể chứng kiến Bàn Môn Điếm được tháo dỡ. Hoàn cảnh Trung Quốc và Đài Loan tuy có khác đôi chút, nhưng cũng vậy, chưa biết bao giờ mới chung một màu cờ.

Do đó “Ngày thống nhất đất nước” theo tôi là thích hợp nhất để diễn đạt ngày 30/4/1975 và cũng là trung thành với nguyên lý “Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước” của chủ nghĩa Nhất thể Việt hay hệ tư tưởng của người Việt.

VOA: Chúng tôi được biết vào tháng 3 vừa qua, Tiến sĩ có gửi lãnh đạo Nhà nước Việt Nam kiến nghị xây Đài tưởng niệm chung cho các chiến sĩ hy sinh trong chiến đấu bảo vệ Hoàng sa và Trường Sa, trong đó ông đề nghị tôn vinh các quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bằng cách công nhận họ là liệt sĩ. Xin ông cho biết mục đích khi ông đã đưa ra sáng kiến này?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Thực lòng khi đưa ra Kiến nghị tôi không nhằm bất cứ mục đích chính trị nào mà chỉ đơn giản nghĩ rằng tất cả những ai đã hy sinh để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đều có quyền được Nhà nước thay mặt nhân dân Việt Nam tri ân và tri ân một cách xứng đáng.

Trừ những kẻ phản bội Tổ quốc Việt Nam, không ai có quyền tước đoạt cái quyền thiêng liêng ấy của những người lính Việt Nam Cộng Hoà đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng sa, lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam.
Tất nhiên khi Kiến nghị này được Nhà nước Việt Nam nghiêm túc thực hiện thì đó sẽ là sự khởi đầu quan trọng cho hòa hợp, hoà giải giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến.

Nhưng để có được hoà hợp, hoà giải dân tộc thực sự và bền vững thì Nhà nước Việt Nam phải thay đổi căn bản tư duy về vấn đề này.

VOA: Ông có thể nói rõ hơn về chuyện thay đổi căn bản tư duy này, chẳng hạn thay đổi như thế nào, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Hoà hợp, hoà giải dân tộc là xuất phát từ lợi ích chung, lợi ích quốc gia nên dứt khoát không phải là sự ban phát của nhà cầm quyền mà phía bên kia là kẻ chịu ơn, không phải là sự tha thứ, khoan dung dành cho những đứa con hư biết hối lỗi như cách Nhà nước Việt Nam thể hiện bấy lâu nay.

Hoà hợp, hoà giải dân tộc là biết tôn trọng và tốt hơn nữa, biết nhân nhượng những quan điểm chính trị khác biệt, kể cả đối lập để phụng sự Tổ quốc Việt Nam một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Nói cách khác, hoà hợp, hoà giải dân tộc là chấp nhận chung sống của các quan điểm chính trị khác biệt

Cần lưu ý rằng chính sách đoàn kết toàn dân tộc mà Nhà nước Việt Nam luôn đề cao trước hết phải là đoàn kết chính trị, tức đoàn kết các quan điểm chính trị khác biệt bởi nếu cùng chính kiến thì cần gì phải đoàn kết.

Tổ quốc Việt Nam không của riêng ai và vì vậy sẽ là có tội nếu Nhà nước Việt Nam chần chừ hoặc tồi tệ hơn, không thực tâm thực hiện hoà hợp, hoà giải dân tộc để mọi người Việt bất luận chính kiến đều có cơ hội cứu nước trước nguy cơ Trung Quốc xâm lược Trường Sa nói riêng, lãnh thổ Việt Nam nói chung, rõ ràng hơn bao giờ hết!

Nhân đây một lần nữa tôi kêu gọi ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam mau chóng thực hiện chế độ đa đảng ở Việt Nam bởi nếu không, Hoà hợp, hoà giải dân tộc sẽ lại trở thành Lừa dối dân tộc với hậu họa đã có thể nhìn thấy trước.
VOA: Xin cảm ơn Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ về sự chân thành và thẳng thắn cũng như thời gian mà ông đã dành cho chúng tôi trong cuộc phỏng vấn này.

New posts:



Share
Xem thêm »

Thứ Tư, 13 tháng 4, 2011

Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc

Vietnamdefence - Trung Quốc hạ thủy tàu sân bay đầu tiên vào tháng 4
Tàu sân bay này đã được đặt tên là Thi Lang, tên vị đô đốc đã chinh phục Đài Loan năm 1681. Tàu sân bay này dự định được thử nghiệm vào 23.4 - ngày thành lập hải quân Trung Quốc, hoặc 1.7 - nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng cộng sản Trung Quốc.
Kể từ năm 2009, Trung Quốc đã thay đổi chiến lược hải quân và tìm cách mở rộng địa bàn chiến lược tới Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã triển khai 3 tàu hải quân tới vùng biển ngoài khơi Somalia kể từ 2008 và tiến hành một cuộc diễn tập hải quân quy mô lớn từ tháng 4 năm ngoái, trong đó, tàu chiến nước này vượt qua vùng biển phía nam Nhật và đi vào tây Thái Bình Dương. Một chiếc tàu sân bay là yếu tố then chốt để Trung Quốc thực hiện thành công chiến lược này.

Tàu sân bay Varyag đóng dở của Liên Xô được Trung Quốc mua từ Ukraine năm 1998, năm 2001 được kéo về Trung Quốc và tân trang lại tại một xưởng đóng tàu ở Đại Liên từ năm 2000, Tân Hoa xã cho biết.
Một chuyên gia chính trị quốc tế ở trường đại học Bắc Kinh cho biết: "Khi sự quan tâm của Trung Quốc mở rộng khắp toàn cầu, thì chiến lược hải quân vốn chỉ tập trung vào lợi ích quốc gia - bị hạn chế ở lãnh hải Trung Quốc - sẽ không còn phù hợp. Do đó, nước này cần tàu sân bay để mở rộng vùng hoạt động khắp thế giới".



Tính năng kỹ-chiến thuật của tàu Varyag:
Lượng giãn nước, tiêu chuẩn/đầy đủ, tấn: 55.000 / 70.500
Kích thước: chiều dài / chiềurộng theo mớn nước / mớn nước / chiều rộng boong bay, m: 304,5 / 38,0 /10,5 / 75,0
Công suất động cơ turbine hơi nước, mã lực: 4х50.000
Tốc độ: tiết kiệm/tối đa, hải lý/h: 18,0 / 32,0
Cự ly hành trình chạy ở chế độ tiết kiệm, hải lý: 8.000
Số máy bay trên tàu: 26
Số trực thăng trên tàu: 24
Dự trữ nhiên liệu máy bay, tấn: 2.500
Thủy thủ đoàn, người (sĩ quan): 1980 (520)


New posts:



Share
Xem thêm »

Thứ Ba, 12 tháng 4, 2011

Đình chỉ công an viên vì nghi đánh chết dân

(BBC) Công an tỉnh Sóc Trăng vừa khởi tố vụ án Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người sau khi đình chỉ ba công an viên vì liên quan cái chết của một người dân tại trụ sở công an. Báo trong nước cho hay ba cán bộ công an thị trấn Ngã Năm (tỉnh Sóc Trăng), bao gồm thượng úy Võ Văn Út Đèo (Phó công an thị trấn), thượng sỹ Danh Nhãn và trung sỹ Trần Văn Khải đã bị tạm đình chỉ công tác và sinh hoạt Đảng để điều tra nghi vấn gây ra cái chết cho ông Trần Văn Dữ (44 tuổi).
Được biết ông Dữ hôm 30/03 do nhậu say đã cãi cọ và dùng tay đánh mẹ ruột của ông. Sau đó ông bị đưa về trụ sở công an thị trấn Ngã Năm để "làm việc".
Khoảng 11 giờ đêm cùng ngày, dân địa phương phát hiện ông Dữ nằm chết bên cạnh đồn công an. Khám nghiệm tử thi cho thấy ông bị vỡ gan và lá lách, tụ máu bầm trong ổ bụng gây tử vong và bị thương nặng ở phía sau đầu.

Trước khi bị đưa về trụ sở công an, sức khỏe của ông được nói là "hoàn toàn bình thường".
Báo trong nước cũng nói tuy phát hiện ông gặp nạn, công an thị trấn đã không đưa ông đi cấp cứu.
Các vụ công an bạo hành dân được phản ánh nhiều trong thời gian gần đây.
Riêng trong tháng Ba, theo các nguồn tin, đã có ba vụ công an bị cáo buộc đánh dân dẫn đến chết người. Gây chú ý dư luận nhất là vụ ông Trịnh Xuân Tùng bị một trung tá công an đánh tại Giáp Bát, Hà Nội.

Phúc trình nhân quyền mới đây của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói trong năm 2010 có chín người dân bị công an bạo hành đến chết.
Đa số các trường hợp công an viên không bị trừng phạt thích đáng.

New posts:



Share
Xem thêm »

Phiên toà kangaroo

Nguyễn Đình Đăng
nguendinhdang.wordpress.com
Đêm qua lần đầu tiên tôi mơ thấy mình vẽ một bức tranh, nhưng không tuân theo trình tự mà tôi đã đúc kết từ kỹ thuật vẽ nhiều lớp của các bậc thầy cổ điển như vẽ lót, vẽ phủ, vẽ đắp, rồi vẽ láng. Tệ hơn, toile vẽ không căng phẳng, không được lót cẩn thận, khiến sơn dầu thấm loang lổ cả ra phía sau. Kết quả là bức tranh trông chẳng ra gì, vô giá trị, phải vứt đi. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình toát cả mồ hôi. Thật là một cơn ác mộng.
Phiên toà kangaroo
Kangaroo (kăng-gu-ru) là tên loài chuột túi sinh sống ở châu Úc, có đầu nhỏ, hai tai to, hai chân trước ngắn ngủn, hai chân sau lực lưỡng với một cái đuôi to và dài dùng làm chỗ dựa.
Kangaroo di chuyển bằng cách dùng hai chân sau làm bàn đạp để nhảy phốc, “đi tắt đón đầu”, nhằm mau chóng rời khỏi vị trí hiện tại để đạt tới một cái đích nào đó. Thuật ngữ phiên tòa kangaroo đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1853 tại Texas, để chỉ kiểu xử án “đốt cháy giai đoạn” tựa như những cú nhảy của con kangaroo. Theo định nghĩa của từ điển Webster, phiên tòa kangaroo là “phiên tòa giả hiệu, bỏ qua hoặc áp dụng sai lạc các nguyên tắc của luật pháp và công lý”, như từ chối những quyền tố tụng cơ bản của bị cáo và luật sư trong đó có quyền triệu tập người làm chứng, quyền loại bỏ bằng chứng sai trái và quyền thẩm vấn, quyền từ chối quan tòa hay luật sư do thiên vị hay mâu thuẫn quyền lợi, quyền không buộc tội chính mình, quyền tự bào chữa, và quyền kháng án. Phiên toà kangaroo nhảy vội đến kết luận với một bản án đã có từ trước khi phiên tòa diễn ra, tiếng Việt gọi nôm na là “án bỏ túi” [1]. Phiên toà xử tiến sĩ luật khoa Cù Huy Hà Vũ ngày 4/4/2011 vừa qua đã hội đủ mọi tiêu chí[2] để trở thành một điển hình sách giáo khoa của một phiên toà kangaroo (hay phiên toà “con cóc nhảy”, nếu thích chuyển ngữ cho “thuần Việt”). Không chỉ các luật sư, mà tất cả những ai đã theo dõi phiên toà cũng có thể nhận thấy điều đó.


Jean de La Fontaine từng viết bài thơ ngụ ngôn “Le Loup et l’Agneau” kể về con chó sói và con cừu non cùng ra suối uống nước. Con sói muốn ăn thịt con cừu bèn tìm đủ cách buộc tội con cừu. Đầu tiên con sói bảo con cừu làm bẩn nước suối của con sói. Bị con cừu bẻ: “Thưa ông, ông uống ở thượng lưu, tôi uống ở hạ lưu, thì chỉ có ông làm bẩn nước của tôi chứ làm sao tôi có thể làm bẩn nước của ông được?”, con sói nói: “Năm ngoái mày đã phỉ báng tao!” Con cừu trả lời: “Thưa ông, năm ngoái tôi chưa ra đời.” Con sói nói: “Thế thì thằng anh mày đã phỉ báng tao!” Con cừu đáp: “Thưa ông tôi là con một.” Con sói rống lên: “Thế thì một đứa trong lũ chúng mày đã nói xấu tao, thằng chăn chúng mày đã nói xấu tao, con chó chăn chúng mày đã nói xấu, tao phải trả thù!” Thế rồi con sói vồ con cừu nhai ngấu nghiến. La Fontaine kết luận: “Lý lẽ kẻ mạnh bao giờ cũng thắng” (La raison du plus fort est toujours la meilleure).

Tại phiên toà ngày 4/4/2011 vừa qua, nhà cầm quyền đã biểu dương sức mạnh của mình với một dàn công an chìm nổi, rào chắn, dùi cui, xe phun nước, xe cứu thương, xe bus, v.v. Nhân dân bị ngăn cấm vào dự phiên toà, bị nạt nộ, bị xô đẩy, bị bắt bớ. Cả một bộ máy quyền lực với những công cụ ghê gớm của nó đã được giương ra với ý định đè bẹp ý chí của một cá nhân, làm gương cho những kẻ khác. Thế nhưng lần này cá nhân đó – ông Cù Huy Hà Vũ – lại hiểu rất rõ và “tin tưởng tuyệt đối” vào lý tưởng của mình trong khi những người thừa hành nhiệm vụ đàn áp ông lại tỏ ra ngượng ngập, lúng túng, thiếu hiểu biết chuyên môn. Kết cục thì như mọi người đều đã thấy rõ: Ông Vũ đã không bị khuất phục. Ông sẵn sàng chịu bất cứ cái án nào toà phán cho ông. Ông bình tĩnh nói: “Tổ quốc và nhân dân Việt Nam sẽ phá án cho tôi, công dân Cù Huy Hà Vũ!” Trong đoạn video phát trên truyền hình Hà Nội khi những người công an vội vã đưa ông Vũ, tay bị còng, ra xe sau khi phiên toà kết thúc, tôi còn thấy ông Vũ mỉm cười. Những vụ xử án kiểu cóc nhái, chuột túi như thế này diễn ra liên miên tại Việt Nam thường làm tôi tủi hổ. Vậy mà phiên toà kangaroo lần này lại khiến tôi cảm thấy tự hào, vì Việt Nam vẫn còn những người như ông Cù Huy Hà Vũ.

Như thế có nghĩa là đất nước này sẽ có ngày được hưởng Dân Chủ – Tự Do thực sự. Phiên toà xử tiến sĩ luật khoa Cù Huy Hà Vũ dường như đã cho thấy cái ngày đó đang tới gần. “Những con sói sẽ ngừng hú và sẽ chỉ còn tiếng hát của vầng trăng”[5].
Tokyo 8 – 10 /4/2011

[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Kangaroo_court
[2] Theo LS Nguyễn Thị Dương Hà, toà án đã từ chối yêu cầu của TS Cù Huy Hà Vũ muốn thay thế toàn bộ hội đồng xét xử (HĐXX) vì cáo trạng luôn buộc tội ông đòi xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của Đảng CSVN, mà tất cả ủy viên HĐXX đều là đảng viên CSVN, có nghĩa là sẽ không khách quan nếu những người này xét xử ông. Còn theo LS Trần Đình Triển – một trong 4 luật sư bào chữa cho ông Cù Huy Hà Vũ – HĐXX đã từ chối “công bố những chứng cứ, những tài liệu có trong hồ sơ vụ án để các luật sư thẩm vấn, đã bỏ qua quy định tại Điều 214 của bộ luật tố tụng hình sự, và kết thúc phần xét hỏi”. Ông Triển cho biết: “Các luật sư chưa được hỏi, đi sâu vào đánh giá chứng cứ và để chuyển sang phần tranh tụng, có nghĩa là cắt đi cái phần xét hỏi đi vào trực tiếp chứng cứ của vụ án để đánh giá có tội hay không có tội”.
Xem: Nguyễn Thị Dương Hà, Đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm 04/4/2011 đối với TS Cù Huy Hà Vũ.
Xem: Thanh Phương, Thụy Mỹ, và Tú Anh, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ bị tuyên án 7 năm tù. Luật sư Dương Hà tố cáo một phiên tòa trái pháp luật, RFI, 4/4/2011.
[3] http://vi.wikipedia.org/wiki/Cù_Huy_H à_V ũ
[4] Xem điều 69 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992).
[5] George Carlin (1937 – 2008) – nghệ sĩ hài và nhà phê bình xã hội người Mỹ, từng đoạt 5 giải Grammy và Mark Twain Prize for American Humor (Giải Hài cuả Mỹ mang tên đại văn hào Mark Twain).
New posts:



Share
Xem thêm »

Quân đội Trung Quốc với kế hoạch Hỏa tốc Đông phương

( Vietnamnet) Sự gia tăng vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế được hỗ trợ bởi sự hiện diện ngày một lớn của quân đội trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Tham vọng của Bắc Kinh được mở rộng bằng lời thúc giục các nhà lãnh đạo Trung Quốc chủ động hơn trong nỗ lực bảo vệ các lợi ích quốc gia. Lời kêu gọi ấy đã làm dấy lên mối quan ngại về khả năng triển khai quân đội đại lục để bảo vệ các khu vực biên giới rộng lớn.
Bài viết của tác giả Christina Y Lin đăng trên Atimes
Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng Kyrgyzstan tháng 4/2010, khi biểu tình bạo lực đã lật đổ chính phủ, Trần Tương Dương - nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc (CICIR), kêu gọi một chiến lược “ngoại vi lớn” để đảm bảo an toàn cho các khu vực lân cận của Trung Quốc.
Kêu gọi của Trần được lặp lại bởi chính các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc về khả năng can thiệp tại Trung Á. Một tờ báo Hong Kong trong bài bình luận đăng tải tháng 1 lập luận rằng, đường sắt và ý nghĩa quân sự quan trọng của nó rất cần được đưa vào ống kính chiến lược của các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi nước này xuất khẩu công nghệ đường sắt, đồng thời củng cố kế hoạch gia tăng sức mạnh quân sự.

Hỏa tốc Đông phương

Trên thực tế, như thể áp dụng tầm nhìn chiến lược này, ngày 17/11/2010, quân đội Trung Quốc (PLA) lần đầu tiên đã đáp chuyến tàu cao tốc Thượng Hải - Nam Kinh để trở về doanh trại sau khi hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm an ninh tại Triển lãm thế giới Thượng Hải 2010.
Theo Văn phòng đại diện quân sự của PLA tại Cục Đường sắt Thượng Hải, tuyến đường sắt Thượng Hải - Nam Kinh là tuyến liên thành phố, có thể đạt tốc độ tối đa 3.450km/h. Một số nhà phân tích quân sự Trung Quốc coi đây là con đường lý tưởng để PLA “phô trương” quân đội và các thiết bị nhẹ trong hoạt động quân sự hơn là chiến tranh.
Trung Quốc cũng đã xây dựng các tuyến đường sắt tới Tây Tạng, đang phát triển mạng lưới đến Nepal, và lên kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc nối tới Lào, Singapore, Campuchia, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar. Tháng 11 năm ngoái, Ngoại trưởng Iran khi ấy là Manouchehr Mottaki tuyên bố: Iran, Afghanistan và Tajikistan đã nhất trí hợp tác với Trung Quốc để xây dựng tuyến đường sắt Trung Quốc - Iran từ Tân Cương đi qua Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan và điểm kết thúc tại Iran.

Trung Quốc còn có một kế hoạch dài hơn để kết nối tới tận phía tây Iraq (nơi Trung Quốc đầu tư lớn vào dầu khí), Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và đến châu Âu. Đây là một phần của Mạng lưới Đường sắt xuyên Á (TAR) hay Tuyến Đường sắt Tơ lụa kết nối Trung Quốc với châu Âu, sử dụng Trung Đông như một trung tâm quá cảnh.
Với mạng lưới đường sắt cao tốc của Trung Quốc đạt tốc độ tối đa 486,1km/h và sự xông xáo của PLA trong nỗ lực nâng cấp các khả năng chiến đấu tầm xa thông qua việc sử dụng đường sắt để hỗ trợ hậu cần cho lực lượng không quân (PLAAF) và các dự án quân sự khác, thì chiến lược “Hỏa tốc Đông phương” trên Con đường Tơ lụa mới hồi sinh sẽ có tác động quân sự và chiến lược quan trọng với các lợi ích Mỹ và phương Tây trong khu vực.

Quân sự hóa Con đường Tơ lụa Sắt PLA đã tích cực tham gia vào hoạt động thiết kế, lên kế hoạch cho đường sắt cao tốc Trung Quốc. Ví dụ, Cục Đường sắt Thành Đô có 14 sĩ quan quân sự đảm nhận những vị trí hàng đầu trong các ban ngành chủ chốt ở mọi ga chính, thực hiện nhiệm vụ phối hợp hoạt động lên kế hoạch, thiết kế, xây dựng và giám sát đường sắt.

Cục Đường sắt Thẩm Dương nằm ở vị trí chiến lược của Liêu Ninh - tỉnh giáp Triều Tiên, Nội Mông và Hoàng Hải cũng đã thiết lập cơ cấu quản lý vận chuyển quân sự khu vực với PLA. Theo Ban vận chuyển quân sự thuộc Tổng cục Hậu cần PLA (GLD), hơn 1.000 nhà ga đã được trang bị những phương tiện vận tải quân sự, từ đó thiết lập một mạng lưới đường sắt hỗ trợ toàn diện nhằm nâng cao khả năng chiến lược của PLA.
GLD đã phối hợp với Bộ Đường sắt trong năm 2009 nâng cấp 20 tuyến đường sắt cũ tại Trung Quốc với khả năng vận chuyển quân sự. Năm 2009, một lượng tiền lớn đã được đầu tư để xây dựng các cơ sở vận tải quân sự cho một số nhà ga.

Việc đầu tư này nhằm đáp ứng các nhu cầu quân sự để sử dụng cho các hoạt động kiểu như Sứ mệnh hòa bình của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) trong năm 2010. GLD đã tích cực tham gia vào toàn bộ quá trình xây dựng đường sắt, từ lên kế hoạch, chương trình đầu tư tới công đoạn hoàn tất mạng lưới. Ví dụ, khi xây dựng đường sắt từ Côn Minh - thủ phủ tỉnh Vân Nam tới Nam Ninh - thủ phủ Quảng Tây, để đáp ứng yêu cầu của quân đội, Bộ Đường sắt đã phải xem xét lại một phần tuyến đường và kéo dài thêm 12,4km khiến chi phí gia tăng lên tới 1,55 tỉ nhân dân tệ (232,66 triệu USD).

Với chính sách không ngừng mở rộng của Trung Quốc và các dự án cơ sở hạ tầng hướng tới các nước láng giềng, một số nhà phân tích bắt đầu lo ngại về khả năng quân sự hóa trên Con đường Tơ lụa Sắt.

New posts:




Share
Xem thêm »

Nguy cơ mất mũi Cà Mau

(Thanhnien Online) Biển đang “gặm” dần mũi Cà Mau. Tình trạng đã đến mức báo động khiến có những lo ngại mũi đất tận cùng của cực nam Tổ quốc sẽ biến mất...
Ở tọa độ 8 độ 37 phút 30 vĩ bắc và 104 độ 43 phút kinh đông (thuộc xã Đất Mũi, H.Ngọc Hiển, Cà Mau), mũi Cà Mau là vị trí mà nhiều người VN khát khao ít nhất một lần được đặt chân tới. Lịch sử vùng đất này luôn tiếp nối câu chuyện đất sinh sôi lấn dần ra biển. Vùng đất trẻ còn được coi như một biểu tượng tinh thần của không chỉ cư dân Đất Mũi. Nhà thơ Xuân Diệu từng cảm hứng: “Mũi Cà Mau: vùng đất tươi non/ Mấy trăm đời lấn luôn ra biển/ Phù sa vạn dặm tới đây tuôn/ Lắng lại; và chân người bước đến” (Mũi Cà Mau).

Tuy nhiên, một thực tế là trong những năm gần đây, vùng đất này đang chịu cảnh xói lở khiến nhiều người đến đây phải chạnh lòng. Nhiều vị trí, vài năm trước còn đó, giờ đã mất bởi đà xâm thực vốn chưa từng diễn ra với vùng đất “Mũi tàu Tổ quốc” này. “Nếu lấy bản đồ trước đây so với bây giờ, chúng ta sẽ thấy khu vực mũi Cà Mau đã có nhiều thay đổi”, một cán bộ công tác tại Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau chỉ cho chúng tôi xem những biến dạng đến giật mình của mũi đất nổi tiếng này.

Được biết, từ khi khu đất này trở thành khu du lịch (KDL) sinh thái (năm 2001) đến nay, địa phương đã không ít lần cho làm bờ kè để giữ đất. Tuy nhiên, nhiều công trình với các chất liệu khác nhau đều không tồn tại nổi trước đà xâm thực dữ dội của biển, chỉ còn lại dấu tích là những cọc dừa, cọc bê tông nằm khẳng khiu giữa biển. “Ăn” hết những bờ kè giữ đất, biển “nuốt” luôn những công trình du lịch và hiện đang tiến gần đến công trình biểu tượng mũi Cà Mau.

Rừng phòng hộ ven biển đã bị xâm phạm. Thêm vào đó, khi xây dựng khu du lịch, người ta đã đưa cơ giới vào đào xới, lấy cát từ các bãi bồi lắng. Điều này đã tác động xấu vào tiến trình diễn thế của tự nhiên, gây sạt lở - Ông Lý Hoàng Tiến, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND xã Đất Mũi


Đưa chúng tôi ra khu đất tận cùng của chóp mũi, anh hướng dẫn viên du lịch tên Dương Văn Thắng chỉ về các thanh cọc phía xa nói đó là công trình bờ kè chắn sóng đã bị sóng đánh hư. Cách bờ khoảng 10m về hướng đông là hàng cọc bê tông đang xây dở dang, nhưng đã bị sóng “đánh phủ đầu” để tiếp tục lấy đi phần đất bên trong. Sát con lộ, một dãy kè bằng cây tràm “dã chiến” vừa được đóng, nhưng cũng thật mong manh và biển đã bắt đầu ăn tới con lộ. Từ con lộ này, qua một khoảnh đất nữa là biểu tượng mũi Cà Mau...

Phía trong biểu tượng mũi Cà Mau về phía tây là cột mốc tọa độ quốc gia. Trước đây, sau khi tham quan cột mốc đặc biệt này, du khách sẽ được dẫn đến một con đường nhỏ len qua rừng đước để đi từ đông sang tây mũi Cà Mau. Phía ngoài còn có con đường xi măng uốn cong theo bờ biển, dọc theo là những chòi gác để khách nghỉ chân và ngắm cảnh. Tuy nhiên, đến thời điểm này con đường đã biến mất. Khách cũng không thể đặt chân lên các căn chòi gác vì số nằm trong thì bị sóng biển đánh tới chân, số khác thì đã nằm... chơi vơi ngoài biển. Đưa khách qua mỏm đất nằm chếch về hướng tây mũi Cà Mau, nơi những rẻo đất khẳng khiu, tơi tả sau những cú đánh của sóng biển, một nhân viên của KDL mũi Cà Mau cho biết, trong Tuần lễ du lịch Đất Mũi diễn ra hồi tháng tư năm ngoái, người ta đã cho làm một đoạn đường tạm để du khách và quan chức có thể đi từ đông sang tây. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau, biển cũng đã “hô biến” luôn đoạn đường này. Bây giờ, chỉ có thể đứng ở rẻo đất chóp mũi để nhìn ra căn chòi gác bị sóng biển cách ly khỏi bờ. Chếch về phía tây mũi đất là một khóm cây mắm đã “chia tay” với bờ. Anh này nói trước đây những vị trí trên là một phần đất liền. Chỉ sau mấy năm nó đã “thuộc về biển cả”.

Không chỉ có mũi đất nằm trong KDL mũi Cà Mau, cả dãy bờ biển chạy dọc về hướng đông cũng đang hứng chịu cảnh biến xâm thực. Ông Nguyễn Quốc Khải, cán bộ quản lý KDL Lý Thanh Long, cho biết khoảng 4 năm nay, biển đã lấn vào đất liền tại KDL này trên dưới 300m. Trước đây, vùng đất này hằng năm được biển mang phù sa về bồi lắng. Tuy nhiên, chỉ khoảng 4 năm nay, biển đã “đổi tính” lấy mất bãi cát vàng, tiến đến ăn bứt bờ kè phía trong bãi cát khoảng 50m. Xong bờ kè, sóng biển lại “thịt” luôn những cây dương được trồng phía trong, rồi “gặm” luôn sân bóng đá. Đánh dạt các công trình du lịch, đến hồ nuôi cá cảnh quan nằm sâu trong đất liền cũng chẳng yên. Chạy dọc theo KDL Lý Thanh Long, con lộ xi măng rộng dẫn đến một nhà hàng thủy tạ cũng bị biển “nuốt” trôi. Nhà hàng hiện đã tách xa khỏi đất liền.


Do thời tiết hay con người?
Ông Lý Hoàng Tiến, Bí thư kiêm Chủ tịch UBND xã Đất Mũi cho biết nhiều khu đất, trong đó có những khu đất nằm trong quy hoạch dự án nhưng chưa kịp triển khai xây dựng cho đến nay đã không còn. Đơn cử như khu đất phía sau biểu tượng mũi Cà Mau, Bộ Công an dự kiến xây dựng khu nhà nghỉ, nhưng đã bị biển lấy mất. Ông Tiến tâm sự, gắn bó với vùng đất này nhiều năm ông hiểu biển ở đây “có bồi có lở”, đặc biệt là khu vực phía đông mũi Cà Mau. Nhưng mức độ xói lở không nghiêm trọng như bây giờ. Có nhiều bận ra khảo sát khu vực bờ cát thấy có các đụn cát được bồi lắng, chưa kịp mừng, mấy ngày sau trở ra thì đụn cát đã... mất tiêu

Ông Tạ Huỳnh Vĩnh Trường, Giám đốc Công viên văn hóa mũi Cà Mau nói, ở đây nhiều năm ông đã chứng kiến có những thay đổi bất thường của thời tiết. Như 2 năm nay triều cường đã đột ngột tăng cao. Vào những ngày cao điểm, nước biển đã dâng lên cao hơn những năm trước chừng 2 gang tay, nhấn chìm nhiều dãy đất thuộc mũi Cà Mau. Căn nhà làm việc của BQL cũng bị nước biển dâng ngập. Tương tự, anh Nguyễn Quốc Khải cho biết từ năm 2009 đến nay, vào thời điểm tháng 10 âm lịch có lúc triều cường dâng cao đã cuốn trôi nhiều vật dụng tại KDL Lý Thanh Long. Anh Khải cho rằng chính sự thay đổi triều cường là nguyên nhân dẫn đến sạt lở.

Nhưng ông Tiến thì không cho như vậy. Theo ông, bồi lở là chuyện của tự nhiên, nhưng riêng tại khu vực mũi Cà Mau thì nguyên nhân chính là do sự tác động của con người. Người dân Cà Mau có cụm từ “cây mắm đi trước cây đước theo sau” để chỉ quá trình lấn ra biển của vùng đất bồi lắng. Cây mắm giữ vai trò tiên phong lấn ra biển. Rễ mắm bám chặt vào đất, giữ phù sa, bồi lắng, tích tụ lâu ngày trở thành vùng đất mới. Khi cây mắm hoàn thành sứ mệnh thì đến lượt cây đước theo sau để “khẳng định chủ quyền” của đất liền. Một thời gian, rừng phòng hộ ven biển đã bị xâm phạm. Thêm vào đó, khi xây dựng KDL, người ta đã đưa cơ giới vào đào xới, lấy cát từ các bãi bồi lắng. Điều này đã tác động xấu vào tiến trình diễn thế của tự nhiên, gây sạt lở. Tuy sau đó những người có trách nhiệm cho xây dựng bờ kè giữ đất, nhưng do xây dựng không đúng kỹ thuật nên các bờ kè chỉ “làm mồi” cho sóng biển.

Kỹ sư Tô Quốc Nam, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Cà Mau cho biết tỉnh đang nhờ Viện Khoa học thủy lợi khảo sát, nghiên cứu đánh giá những tác động của tình trạng sạt lở. Nhưng để xây dựng các công trình chống lở phải cần có kinh phí rất lớn; để xây dựng mỗi km bờ kè, theo mức chung cần đến 90 tỉ đồng. Hiện, nhóm kỹ sư của Sở đang có giải pháp “sống chung với sóng” được gọi là “giải pháp mềm” chỉ tốn khoảng 20% kinh phí so với mức đầu tư chung đang chờ tỉnh thông qua. Hy vọng sẽ sớm được triển khai.



New post:


Share
Xem thêm »

Thứ Hai, 11 tháng 4, 2011

Viễn cảnh xử lý và giải quyết xung đột ở Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông]

Ralf Emmers
Đại học Công nghệ Nanyang
Ralf Emmers là giáo sư và người điều phối Chương trình Chủ nghĩa Đa phương và Chủ nghĩa Khu vực [Multilateralism and Regionalism Program] tại trường S.Rajaratnam School of International Studies (RSIS) thuộc Nanyang Technological University, Singapore. Ông là tác giả của Geopoilitics and Maritime Territorial Disputes in East Asia (Routkegde, 2010), Cooperative Security and the Balance of Power in ASEAN and the AFF (Routledge Curzzon, 2003) và Non-Traditional Security in the Asia-Pacific: the Dynamics of Securitization (Marshall Cavendish, 2004).
Người dịch: Phạm Anh Tuấn
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
Nhìn chung, tình hình tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa đã phản ánh xu hướng các mối quan hệ trong khu vực. Sự nồng ấm trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á vào đầu những năm 2000 đã góp phần tạo ra sự tiến triển trong xử lý xung đột. Việc ký kết Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa cho thấy rõ các bên liên quan đã theo đuổi các yêu sách của mình theo cách ôn hòa. Tuyên bố này công khai lên án việc sử dụng vũ lực ở Biển Nam Trung Hoa và nó góp phần vào việc làm dịu căng thẳng giữa các nước có yêu sách lãnh thổ. Tuyên bố này còn được thấy là dấu hiệu Trung Quốc mong muốn tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực ASEAN được nêu trong Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (TAC) của ASEAN và Trung Quốc muốn chung sống hòa bình với các nước láng giềng Đông Nam Á. Lập trường hòa giải của Trung Quốc còn được tiếp tục chứng minh khi Trung Quốc là quốc gia đầu tiên ngoài ASEAN đã ký TAC vào năm 2003. Rút cục tuyên bố năm 2002 đã được thừa nhận là một “bước phát triển có ý nghĩa” bởi vì các bên ký tuyên bố này đã cam kết tiền hành các hoạt động hợp tác và đẩy mạnh khả năng đạt được thỏa thuận về các kế hoạch khai thác và phát triển chung.[2] Chẳng hạn, Tổng thống Phlippine Gloria Arroyo từng tuyên bố rằng thỏa thuận được ký tháng 3 năm 2005 giữa các công ty dầu khí của Trung Quốc, Việt Nam và Philippine nhằm tiến hành các cuộc khảo sát trước khi tiến hành thăm dò dầu khí ở quần đảo Trường Sa là sự triển khai đầu tiên các điều khoản của tuyên bố năm 2002.[3]

Tuy nhiên, bản tuyên bố này vẫn là một bước hụt trong việc thực hiện được mục đích ban đầu đề ra là đạt được một nguyên tắc ứng xử cụ thể mang tính ràng buộc cho Biển Nam Trung Hoa[4]. Nhiều nhà phân tích vẫn hoài nghi việc tuyên bố này khả dĩ cung cấp một khung thể chế bền vững cho việc xử lý xung đột, nhất là do chỗ nó thiếu các cơ chế ngăn ngừa hoặc giải quyết cái gốc của xung đột[5]. Nó giống như một tuyên bố chính trị hơn là một hiệp ước và nó chỉ dựa trên sự đồng thuận và cái “mẫu số chung nhỏ nhất”, cái sự đồng thuận ấy không ràng buộc về pháp lý mà cũng chẳng mang hiệu lực bắt buộc phải thực thi. Mặt khác, cái tuyên bố ấy lại tránh không đả động đến vấn đề chủ quyền bởi lẽ tất cả các nước tranh chấp chủ quyền đều kiên định lập trường về các yêu sách lãnh thổ của mình. Ngoài ra để cho bản tuyên bố này được phê chuẩn thì người ta đã buộc phải có những nhượng bộ lớn và làm cho nội dung của nó “luyễnh loãng” đi trong đó có việc bản tuyên bố này hoàn toàn không nhắc cụ thể đến những gì thuộc về địa lý.

Chẳng có tiến bộ lớn nào đạt được trong xử lý xung đột kể từ năm 2002. Việc không thể thực thi bản tuyên bố này và không thể triển khai tiếp một bộ ứng xử là do nhiều yếu tố. Bắc Kinh dường như chỉ nghĩ tới chuyện ủng hộ một bộ ứng xử đa phương không mang tính ràng buộc và chỉ giới hạn bộ ứng xử đó vào quần đảo Trường Sa đồng thời họ tập trung vào chuyện đối thoại và duy trì sự ổn định khu vực hơn là tập trung vào vấn đề quyền tài phán chủ quyền. Các quốc gia yêu sách chủ quyền đều không muốn nhượng bộ các yêu sách lãnh thổ của mình. Việc thiếu vắng một sự đồng thuận giữa các nước ASEAN về Biển Nam Trung Hoa cũng là điều xác đáng thôi. Mỗi nước thành viên ASEAN lại có một mối bang giao riêng biệt với Trung Quốc và họ không có cùng quan điểm đối với mối đe dọa tiềm tàng của Trung Quốc. Thêm vào đó, bản thân một số nước thành viên lại có yêu sách xung đột nhau về quần đảo Trường Sa, trong khi đó các nước còn lại thì bàng quan với vấn đề chủ quyền. Căn nguyên mất đoàn kết này gây khó khăn cho việc đạt được một lập trường chung và làm suy yếu ASEAN trong các cuộc đàm phán với Bắc Kinh.

Sự không cân xứng sức mạnh ở Biển Nam Trung Hoa ngày càng gia tăng do Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân đã đặt câu hỏi về liệu ASEAN có đủ khả năng xử lý tranh chấp hay không. Người ta ngày càng bàn cãi nhiều về việc cách tiếp cận của ASEAN trong xử lý xung đột ở Biển Nam Trung Hoa liệu có làm giảm thiểu tác động của vấn đề phân bố sức mạnh không đồng đều ở đây. Diễn biến phân bố sức mạnh đã không gặp phải đối thủ lẽ ra nằm ở chỗ ASEAN phải thúc đẩy thực thi các cơ chế xử lý xung đột. Thay vì thế tình hình ngày càng leo thang tại đây kể từ cuối năm 2006 và trên đất liền Trung Quốc ngày càng tỏ ra kiên quyết không úp mở khi họ đưa ra những yêu sách lãnh thổ biển.[6] Có một điểm quan trọng cần nhấn mạnh ấy là Trung Quốc không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra sự gia tăng căng thẳng ở Biển Nam Trung Hoa. Những hành động của các quốc gia tranh chấp khác đã tỏ ra chẳng có tác dụng gì trong việc xử lý tình hình.

Chẳng hạn, vấn đề lãnh thổ đã leo thang mạnh hơn do Philippine, Malaysia và Việt Nam đã đệ trình yêu sách lãnh thổ của họ lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp quốc. Các nước đã gia nhập công ước về Luật Biển (UNCLOS) trước năm 1999 phải đệ trình yêu sách bổ sung về các quyền kinh tế nếu thềm lục địa của họ vượt quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở lãnh hải. Trung Quốc đã tức giận phản ứng và gọi việc đệ trình này là một sự vi phạm quyền tài phán và chủ quyền của họ đối với Biển Nam Trung Hoa.[7] Mặc dù có thể lường trước được phản ứng trên của Trung Quốc bởi vì các yêu sách mới đưa ra đã chồng chéo lên yêu sách của chính Trung Quốc, song điểm quan trọng cần lưu ý là Bắc Kinh đã gửi kèm bản đồ hình chữ “U” đứt khút trong công hàm phản đối của họ, do đó đã khơi lại những nghi ngờ từng xảy ra trước đây ở Hà Nội, Kuala Lumpur và Manila[8]. Bắc Kinh đã thành lập Vụ chuyên trách các vấn đề biên giới và hải dương [Department of Boundary and Ocean Affairs] và tăng cường năng lực tuần tra với ý đồ tiếp tục khẳng định chủ quyền của họ đối với Biển Nam Trung Hoa.

Cuối cùng, sự gia tăng cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ trong địa hạt hàng hải lại càng gây phức tạp cho việc xử lý trang chấp ở Biển Nam Trung Hoa theo cách hòa bình. Vụ rắc rối liên quan đến việc hải quân Trung Quốc quấy rối tàu do thám The Impeccable của Mỹ và các tàu ngư chính hoạt động tuần tiễu tại vùng biển phía nam đảo Hải Nam hồi tháng 3 năm 2009 đã gây thêm lo ngại cho một số nước Đông Nam Á. Tuy Trung Quốc tuyên bố rằng tàu Impeccable đã tham gia “các hoạt động trái phép” tại vùng biển đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, song sự cố này còn được hiểu như là một ví dụ cho thấy Trung Quốc có thái độ kiên quyết ở Biển Nam Trung Hoa. Tại Diễn đàn Khu vực ASEAN [ARF] hồi tháng 7 năm 2010 Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton đã đối phó lại Trung Quốc trong vấn đề Biển Nam Trung Hoa bằng tuyên bố rằng khu vực này là một “lợi ích quốc gia” của Mỹ, điều này chắc chắn đã được xem là nguyên nhân khiến cho Bắc Kinh lo ngại. Ở Đông Nam Á xảy ra một nỗi lo lắng ấy là việc Trung Quốc và Mỹ ngay càng cạnh tranh mạnh mẽ có thể khiến Trung Quốc trở nên càng kiên quyết hơn trong ngoại giao và trong hoạt động hải quân ở Biển Nam Trung Hoa.[9] Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi lãnh đạo các nước ASEAN đã đề nghị không nhắc tới Biển Nam Trung Hoa trong tuyên bố cuối cùng khi kết thúc cuộc gặp gỡ thượng đỉnh lần thứ hai với sự có mặt của Tổng thống Mỹ Barack Obama hồi tháng 9 năm 2010.

CÁC KỊCH BẢN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT

Sau khi đã xem xét nỗ lực nhằm xử lý xung đột ở Biển Nam Trung Hoa, bây giờ chúng ta hãy tập trung vào các kịch bản giải quyết khác nhau. Vấn đề Biển Nam Trung Hoa khó giải quyết là bởi vì nó có nhiều yếu tố liên quan và còn bởi vì hiện nay các yêu sách chủ quyền chồng chéo nhau đã lên đến đỉnh điểm. Dùng phân xử bằng trọng tài quốc tế để giải quyết tranh chấp không phải là một kịch bản thích hợp. Tất cả các nước yêu sách chủ quyền đều lặp đi lặp lại yêu sách của mình và họ không muốn nhượng bộ trong yêu sách lãnh thổ. Có nước thì từ chối thảo luận vấn đề quyền tài phán chủ quyền đối với các đảo hoặc có nước lại gửi yêu sách chồng chéo của họ tới Tòa án tư pháp quốc tế [ICJ] hoặc Tòa án Quốc tế về Luật biển. Các yêu sách này tương phản lại với các tranh chấp lãnh thổ khác ở Đông Nam Á. Chẳng hạn, hồi tháng 11 năm 2007 Singapore và Malaysia đã đệ trình lên ICJ để phân xử yêu sách chủ quyền của họ đối với đảo [Singapore gọi là Petra Branca còn Malaysia gọi là Pulau Baru Puteh]. Kết thúc 28 năm tranh chấp chủ quyền, tháng 5 năm 2008 tòa đã phân xử Singapore thắng kiện, nhưng đã phân xử hai bãi đá nhỏ hơn có tên là Middle Rocks thuộc về Malaysia.

Rõ ràng không thể dùng pháp lý để giải quyết các yêu sách bất đồng nhau ở Biển Nam Trung Hoa. Leni Stenseth nhận xét rằng “dường như không một quốc gia yêu sách nào đưa ra được một trường hợp dứt khoát trên phương diện pháp lý, còn luật pháp quốc tế dùng để giải quyết tranh chấp thì lại dường như chỉ mang ý nghĩa hạn chế[10].” So với tranh chấp liên quan đến các nước khác, Trung Quốc và Đài Loan đã đưa ra nhiều yêu sách dựa nhiều vào lịch sử nhất đối với Biển Nam Trung Hoa. Song, mặc dù tài liệu sử học và sự đầu tiên phát hiện ra lãnh thổ có thể cung cấp cơ sở để một quốc gia tham gia tranh chấp dùng đó làm lập trường, thế nhưng luật pháp quốc tế kể từ vụ tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan đã chứng minh một điều rằng các nguyên tắc nói trên là không đủ để xác định chủ quyền. Thay vì thế, cái tên do người đầu tiên phát hiện ra lãnh thổ đã đặt tạm buộc phải được bổ sung bằng sự liên tục sử dụng và cư ngụ trên lãnh thổ đó. Tên gọi xuất phát từ sự cư ngụ thậm chí có thể thay thế cho những yêu sách dựa trên lịch sử[11]. Thêm vào đó, rất khó chứng minh những yêu sách của Trung Quốc bởi vì theo truyền thống Khổng Giáo thì lãnh thổ được biểu thị dựa trên các vùng có ảnh hưởng chứ không dựa trên những đường ranh giới rõ rệt[12]. Bản thân UNCLOS không thể được đem áp dụng để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ. Trong những trường hợp sử dụng UNCLOS thì UNCLOS quy định rằng “các quốc gia có yêu sách chồng chéo nhau phải giải quyết bằng đàm phán trung thực,”[13] song không có các đường ranh giới hàng hải nào được công nhận ở hầu hết các phần thuộc Biển Nam Trung Hoa và một số quốc gia yêu sách thậm chí đã không chỉ ra được những yêu sách cụ thể. Vì dầu mỏ được hiểu là cái đang bị đe dọa cho nên không chính phủ nào muốn mạo hiểu từ bỏ lợi ích quốc gia tại khu vực này. Thà rằng UNCLOS làm cho vấn đề trở nên dễ hiểu thì lại đi một nhẽ, đằng này trên thực tế nó lại làm cho các tranh chấp trở nên phức tạp và căng thẳng hơn.

Điều nghịch lý là nếu giải thích nghiêm ngặt UNCLOS thì có khi ngăn cản hầu hết sự phát sinh vùng kinh tế đặc quyền (exclusive economic zone – EEZ) dựa trên những đặc điểm của Biển Nam Trung Hoa và do đó giới hạn được tối đa các vùng nằm trong yêu sách chồng chéo nhau. Điều 121, Đoạn 3 nói rằng “Những khối đá nhô lên khỏi mặt nước nếu tự chúng không thể duy trì lâu dài sự cư trú hoặc đời sống kinh tế của con người thì sẽ không có bất cứ vùng kinh tế đặc quyền hoặc thềm lục địa nào,[14]”thay vì thế các khối đá đó chỉ được cho phép một lãnh hải là 12 dặm hải lý. Tuy nhiên, bởi vì không có các hướng dẫn cụ thể để phân biệt một khối đá với một hòn đảo, cho nên các thuật ngữ sử dụng vẫn tiếp tục bị bỏ ngỏ cho sự bất đồng và lợi dụng bởi các bên yêu sách lãnh thổ. Ngoài sự tranh cãi xoay quanh những gì cấu thành một hòn đảo thì cách áp dụng nghĩa của thềm lục địa để yêu sách lãnh thổ cũng đang gặp phải vấn đề tương tự. Mặc dù rất nhiều bên yêu sách đã viện dẫn sự mở rộng thềm lục địa để chứng minh luận cứ của họ, song điều này là “một cơ sở pháp lý chưa đầy đủ để yêu sách các hòn đảo là của mình.”[15] Vùng biển theo định nghĩa của UNCLOS có thể trao quyền khai thác các nguồn tài nguyên ở đó, song không trao bản thân các hòn đảo. Rút cục, chẳng có vị trí nào ở Trường Sa hoặc Hoàng Sa nằm cách bên yêu sách này hoặc bên yêu sách kia 200 dặm hải lý. Điều này có nghĩa là những khu vực được các bên yêu sách tuyên bố là EEZ không tránh khỏi nằm chồng chéo lên nhiều khu vực khác, điều này làm nảy sinh khả năng xung đột tiềm tàng.

MỘT CÁCH TIẾP CẬN KHẢ DĨ CÓ THỂ THÚC ĐẨY GIẢI QUYẾT BẾ TẮC

Do tính chất phức tạp của những yêu sách chủ quyền, những đề xuất thăm dò nhằm giải quyết tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa đều chủ yếu tập trung vào khai thác và phát triển chung kết hợp với việc tạm gác lại vấn đề chủ quyền. Cách tiếp cận này thường được coi là khả năng lựa chọn khả thi nhất để tăng cường hợp tác và ổn định trong vùng. Hiệp định Timor Gap giữa Australia và Indonesia, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam và những thỏa thuận song phương hiện nay khác về phân định đường ranh giới hàng hải đã được xem là các mô hình dựa vào đó xây dựng các kế hoạch khai thác và phát triển chung cho Biển Nam Trung Hoa.

Các công ty dầu khí quốc gia của Trung Quốc, Việt Nam và Philippine đã ký kết Thỏa thuận Khảo sát Địa chấn Biển chung [Join Maritime Seismic Undertaking – JMSU) vào tháng 3 năm 2005 như một thỏa thuận thương mại về tiến hành khảo sát tiền thăm dò dầu khí tại các khu vực thuộc Trường Sa. Lúc đầu thỏa thuận này chỉ được ký giữa Trung Quốc và Philippine, nhưng sau đó Việt Nam đã quyết định tham gia vào năm 2005. Việc ký thỏa thuận này đảm bảo Manila và Hà Nội chí ít cũng được nằm trong quá trình thăm dò tại những khu vực mà họ đang có yêu sách lãnh thổ chồng chéo với Bắc Kinh. Thỏa thuận được ký bởi các công ty dầu khí quốc gia chứ không phải các chính phủ, điều này đã đơn giản hóa quy trình. Song, sau khi thỏa thuận được ký vào năm 2005 thì đảng đối lập ở Philippine đã chỉ trích thỏa thuận này là một chỉ dấu cho thấy chính phủ đang sẵn sàng làm suy yếu những yêu sách của chính mình về những lãnh thổ đang tranh chấp. JMSU cuối cùng đã hết hiệu lực vào ngày 30 tháng 6 năm 2008. Việc gia hạn sau đó đã bị ảnh hưởng bởi những cáo buộc cho rằng trong lần ký kết đầu tiên Trung Quốc đã hối lộ bên ký kết bằng các khoản cho vay[16].

Ngay cả nếu như một kế hoạch khai thác và phát triển chung cho Biển Nam Trung Hoa được đàm phán thành công, thì khi ấy sự chênh lệch sức mạnh quá lớn và việc thiếu một thỏa thuận bao trùm cho các quyền về chủ quyền của các quốc gia duyên hải vẫn có thể bỏ mặc các bên yếu hơn trong tình thế mong manh trong trường hợp xảy ra những thay đổi về tình hình kinh tế hoặc những thay đổi liên quan đến bối cảnh chiến lược. Do đó, người ta có thể cho rằng một kế hoạch phát triển chung như vậy chỉ có thể thành công nếu như nó được đặt bên trong và được xây dựng xung quanh một hệ thống quản lý hợp tác rộng hơn. Nếu không có một sự dàn xếp sâu sắc hơn thì sự chênh lệch sức mạnh quá lớn có thể sẽ vẫn bỏ mặc các bên yếu hơn trong một tình thế mong manh. Một kế hoạch phát triển chung mà không có cơ cấu thể chế và các cơ chế rộng hơn sẽ chỉ đơn giản tái khẳng định những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc trong tình hình có sự phân bố sức mạnh không đồng đều ở Biển Nam Trung Hoa. Các quốc gia Đông Nam Á có yêu sách lãnh thổ chỉ có thể được đưa vào quá trình khai thác ở các khu vực ở đó họ đang có yêu sách chủ quyền chồng chéo với Bắc Kinh. Ở tình huống của JMSU, Valencia khẳng định rằng sự khảo sát chung là một sự thiệt thòi cho Philippine bởi vì sự khảo sát đó đó bao gồm cả một khu vực nằm trong thềm lục địa hợp pháp của Philippine mà Trung Quốc và Việt Nam đều không yêu sách. Mặt khác, thỏa thuận này đã đem lại tính hợp pháp cho “những yêu sách không xác thực về pháp lý” của Trung Quốc và Việt Nam.[17]”

Nói ngắn gọn, việc ký kết một kế hoạch thăm dò và phát triển chung cần được thực hiện sau khi đã có sự đàm phán về một khung khổ cho phép tạm gác lại những yêu sách lãnh thổ hiện hữu và thiết lập một bộ quy tắc ứng xử mang tính quy định ràng buộc các mối quan hệ giữa các quốc gia trong vùng và xử lý các tranh chấp hiện hữu hoặc tiềm tàng. Việc thiết lập một khung khổ như vậy dường như rất khỏ xảy ra trong ngắn hạn và trung hạn. Quả thực, sự bế tắc xuất phát từ những yêu sách chủ quyền chồng chéo đan xen với các chính sách dân tộc chủ nghĩa trong nước vẫn tiếp tục là vật chướng ngại quan trọng đối với việc xử lý và giải quyết xung đột ở Biển Nam Trung Hoa theo cách bền vững.

*Người dịch xin để nguyên cách gọi của tác giả về Biển Đông: Biển Nam Trung Hoa.
[1] Xem Mark J. Valencia, “In Response to Robert Beckman” RSIS Commentaries 53 Rajaratnam School of International Studies, June 4, 2007.
[2] Zou Keyman, “Joint Development in the South China Sea: a New Aproach,” The International Journal of Marine and Coastal Law 21-1 (2006):101.
[3] Luz Baguiro, “Three Nations Sign Pact for Joint Spratlys Surveys” The Strait Times, March 15, 2005.
[4] Ralf Emmers, “Keeping Waters Calm in the South China Sea”, The Strait Times, Singapore, November 21, 2002.
[5] Xem Jorn Dosch, Managing Hegemonic Stability,” Asian Perspective 31-1 (2007); Clive Schofield và Ian Storey “Energy Security and South East Asia: The Impact on Maritime Boundary and Territorial Disputes,” Harvard Asia Quarterly, 9-4 (2005).
[6] Michael Richardson, “China’s Land and Sea Claims: Balancing Stability and Desire for Expansion,” The Strait Times, September 7, 2009.
[7] Ian Storey, “China – Vietnam;s Years of Friendship Turns Fractionous,” The Strait Times, Singapore, May 26, 2009.
[8] Giáo sư Robert Beckman đã nêu vấn đề này tại hội thảo do RSIS và Viện Xã hội học Thượng Hải đồng tổ chức tại Singapore ngày 11 tháng 9 năm 2009.
[9] Barry Wain, “South China Sea: ASEAN caught in a Tight Spot,” The Strait Times, September 16, 2010.
[10] Leni Stenseth, National and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric (Dissertation submitted to the Department of Political Science, University of Oslo, 1998), 10.
[11] Bob Catley and Makmur Keliat, Spratlys: The Disputes in the South China Sea (Aldershot, UK: Ashgate Publishing, 1997) 35.
[12] Joshnia P. Rowan, “The U.S. – Japan Security Alliance, ASEAN and the South China Sea Dispute,” Asian Survey 45-3 (2005): 426.
[13] Erik Kreil, “Energy Issues in the South China Sea Region,” in Cooperative Monitoring in the South China Sea, ed. John C. Baker and David G. Wiencek (Westport, CT: Praeger; 2003), 38.
[14] Xem Điều 121 (3) của Công ước UNCLOS năm 1982 trong Văn bản Chính thức của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển và các Phụ lục và Bảng chú dẫn. New York, Liên Hợp Quốc, năm 1983.
[15] Leszek Buszynski và Iskandar Sazlan, “Maritime Claims and Energy Cooperation,” Contemporary Southeastasia 29-1 (2007): 147.
[16] Ian Storey, “Trouble and Strife in the South China Sea Part II: the Philippines and China, China Brief [The Jamestown Foundation] 12-9, April 28, 2008, 6.
[17] Xem Valencia, “In Response to Robert Beckman”.



New posts:


Share
Xem thêm »